APC|Cập nhật đại hội cổ đông 2015

by finandlife21/04/2015 09:21

Ngày 17/04/2015, VFS Research đã tham dự ĐHCĐ thường niên 2015 của Công ty CP chiếu xạ An Phú (APC– HOSE), sau đây là một số thông tin đáng chú ý:

KQKD năm 2014, DTT tăng nhẹ đạt 97.7 tỷ đồng (tăng 7%yoy, vượt 5% kế hoạch) trong khi LNST tăng cao đạt 31.3 tỷ đồng (tăng 61% yoy, vượt 54% kế hoạch), EPS 2014 đạt 2,160 đồng/cp. Riêng Công ty con là nhà máy Vĩnh Long (chủ yếu chiếu xạ thủy sản) ghi nhận lãi 531 triệu đồng, tăng so với mức lỗ gần 5 tỷ đồng năm 2013, với DTT đạt 26.6 tỷ đồng (tăng 12% yoy).

Mức cổ tức năm 2014 thấp hơn năm trước với tỷ lệ 5% bằng tiền mặt (năm 2013 là 10%). Nguyên nhân: Công ty muốn giữ lại 13 tỷ đồng LNST để tái đầu tư, nâng cấp máy móc hiện đang xuống cấp tại nhà máy Bình Dương.

Kế hoạch năm 2015, DTT vào khoảng 105.4 tỷ VNĐ (tăng 8% yoy), LNST 27.7 tỷ VNĐ (tăng 11% yoy). Kế hoạch khá phù hợp với ước tính của VFS và khả năng APC có thể vượt nhẹ kế hoạch trong năm 2015.

APC ước tính KQKD Q1/2015, sản lượng chiếu xạ đạt 5,000 tấn (tương đương cùng kỳ), DTT vào khoảng 22 tỷ VNĐ (tăng 2% yoy, đạt 21% kế hoạch cả năm) và LNST vào khoảng 6.2 tỷ VNĐ (tăng 8.9% yoy, đạt 22% kế hoạch cả năm). Từ đầu năm, tại nhà máy Vĩnh Long, giá chiếu xạ mảng thủy sản đã được điều chỉnh tăng từ 18,000đ/kg lên 25,000đ/kg và chi phí giảm (giá điện giảm 30% khi chuyển từ giá điện dịch vụ sang giá điện sản xuất, chi phí lãi vay giảm…) đã giúp nhà máy ghi nhận lãi.

Ngoài ra, Ban lãnh đạo trình ĐHCĐ chủ trương tăng vốn để xây dựng thêm nhà máy chiếu xạ mới và Trung tâm nghiên cứu tại Khu công nghệ cao Quận 9. Đây là kế hoạch phát triển dài hạn, phương án tăng vốn và sử dụng vốn chưa được xây dựng cụ thể và sẽ được công bố sau.

Từ cuối năm 2014, hoạt động của APC đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là trong bộ máy quản lý khi thay lần lượt các vị trí lãnh đạo chủ chốt. Theo đó, triển vọng sắp tới của APC tồn tại nhiều quan ngại về chính sách điều hành của Ban lãnh đạo mới. Hiện việc hợp nhất giữa Thái Sơn và An Phú vẫn còn đang trong quá trình đàm phán, kế hoạch tăng vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh mới được đánh giá là khá táo bạo trong thời điểm hiện tại (vốn đầu tư lớn ~ 350 tỷ đồng, khả năng thu hồi vốn còn bỏ ngỏ), sản phẩm tinh thể nước L.A.P hiện đã ngưng sản xuất do chưa tìm được khách hàng và đối tác phân phối. Trước mắt, hiện áp lực về cạnh tranh giá dịch vụ chiếu xạ đã giảm nhiều sau khi đa phần lãnh đạo APC được thay bởi người từ Công ty cạnh tranh Thái Sơn. EPS forward cho năm 2015 vào khoảng 2,300 đồng/cp, PE 2015 vào khoảng 7.5 lần. Chúng tôi khuyến nghị THEO DÕI đối với cổ phiếu này.

 

Analyst Nguyễn Trịnh Ngọc Thủy, VFS Research.

Tags:

Stocks

TƯ VẤN BÁN VCB

by finandlife15/04/2015 15:49

1.           Phân tích cơ bản:

NIM cải thiện dần khi tăng trưởng tín dụng cải thiện, đặc biệt tín dụng cho khách hàng cá nhân và tỷ lệ LDR tăng.

Tình hình kinh doanh dự kiến sẽ cải thiện trong 5 năm tới và điều đó giúp thu nhập giữ lại (Retained Earnings) tăng tốt.

Định giá theo phương pháp Retained Earnings:

Giả định:

Re=13.5%

Retained Earnings dự kiến được trong 5 năm tới như sau (đơn vị tính: tỷ đồng)

 

2015

2016

2017

2018

2019

Retained Earning

423.2

1,488.0

2,721.8

4,181.2

5,923.6

 

Phân tích 3 kịch bản:

Scenario Analysis

Pessimistic

Expected

Optimistic

Risk Premium

9%

8%

7%

Infinite Growth

4%

5%

6%

Fair Value per share (VND)

30,740

34,241

39,894

 

Phương pháp định giá thu nhập giữ lại cho thấy, VCB có thể đạt mức giá trị gần 40 ngàn đồng/cổ phiếu trong kịch bản tích cực, 30,740 đồng trong kịch bản tiêu cực, và 34,241 đồng với kịch bản mà chúng tôi kỳ vọng.

Như vậy, VCB đang giao dịch với thị giá cao hơn 6.9% so với giá trị thật (giá chốt ngày 15/04/2015). Chúng tôi cho rằng việc bán VCB trong bối cảnh hiện này là HỢP LÝ.

2.           Phân tích kỹ thuật:

Xu hướng chung toàn thị trường: Nhiều khả năng đang khởi đầu một sóng tăng mới.

Xu hướng ngành ngân hàng: Thị trường đang kỳ vọng cao vào cổ phiếu ngân hàng trong 2015

Xu hướng cổ phiếu VCB:

Bắt đầu một sóng tăng trung hạn mới:

·         MACD cho buy signal

·         Vol cho thấy dòng tiền đang quay lại với cổ phiếu này

·         RSI cho buy signal

Target sóng tăng này: 39,000 đồng – 41,000 đồng/cổ phiếu

Khuyến nghị:

Định giá theo thu nhập giữ lại và phân tích cơ bản cho thấy giá trị hợp lý của VCB khoảng 34,200 đồng/cổ phiếu. Hiện tại, giá thị trường đạt 36,600 đồng, cao hơn so với giá trị, do vậy, việc bán ra cổ phiếu trong bối cảnh hiện nay là hợp lý.

Tuy vậy, xu hướng thị trường, xu hướng ngành và phân tích kỹ thuật lại cho thấy nhiều khả năng VCB đang ở giai đoạn đầu của một sóng tăng mới. Đỉnh cao của sóng này có thể giúp thị giá VCB tiếp cận vùng 39,000 đồng đến 41,000 đồng/cổ phiếu.

Do đó, chúng tôi khuyến nghị nhà đầu tư có thể thực hiện chiến thuật bán VCB theo tỷ lệ 4:3:3. Bán ngay 40% lượng cổ phiếu để tận dụng sự hợp lý của phân tích cơ bản; bán tiếp 30% khi giá tiếp cận vùng 38,000 đồng; và bán hết 30% còn lại khi giá vượt qua 39,000 đồng, để tận dụng xung lực tăng giá của phân tích kỹ thuật.

Trân trọng,

VFS Research

Tags:

StockAdvisory | Stocks

Báo cáo chiến lược tháng 04/2015 phần 2

by finandlife09/04/2015 17:30

 

Xuất khẩu tháng 03 ước đạt 12.7 tỷ USD, tăng 33.5% sovới tháng trướcTính chung quý I, xuất khẩu ước đạt 35.7 tỷ USD, tăng 6.9% so với cùng kỳ năm 2014.

Mặt hàng tăng cao: Điện thoại các loại và linh kiện +21.9điện tử, máy tính và linh kiện +65.4%; giày dép +19.5%; máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng khác +16.7%; túi xách, vali, mũ, ô dù +19.9%.

Nhập khẩu tháng 03 ước đạt 13.3 tỷ USD, tăng 26.9% so với tháng trước. Tính chung quý Inhập khẩu ước tính đạt 37.5 tỷ USD, tăng 16.3% so với cùng kỳ năm 2014.

Mặt hàng tăng cao:Ô tô +73.6%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác +44.4%; điện tử, máy tính và linh kiện +31.1%; sản phẩm chất dẻo +27.4%; điện thoại các loại và linh kiện +25%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu +25%.

Tháng 02 nhập siêu 967 triệu USD, con số ước tính là xuất siêu 300 triệu USDTính chung quý Iước tính nhập siêu ước tính 1.8 tỷ USDtrong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 3.8 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 2 tỷ USD. 

Nếu sản xuất trong nước tiếp tục phục hồi, khả năng cán cân thương mại năm 2015 theo hướng nhập siêu do phần lớn nguyên, nhiên vật liệu đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất, gia công lắp ráp được nhập khẩu từ nước ngoài.

Tính đến 20/03/2015, cả nước có 267 dự án được cấpphép mới với số vốn đăng ký đạt 1.21 tỷ USD, bằng 59.4% so với cùng kỳ 2014. Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, FDI đạt 1.84 tỷ USD, bằng 55.1% so với cùng kỳ, FDI giải ngân đạt 3.05 tỷ USD, tăng 7%.

Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút FDI nhiều nhất chiếm 76.6%tổng vốn đăng ký,đứng thứ 2 là lĩnh vực kinh doanh bất động sản chiếm 11%, đứng thứ 3 là lĩnh vực bán buôn, bán lẻ, sửa chữa chiếm 6.7%. Theo đối tác đầu tư, Hàn Quốc dẫn đầu vốn đầu tư vào Việt Nam với 26.7%BritishVirgin Islands đứng thứ hai với 19.1% và Nhật Bản đứng thứ ba chiếm 16%.

Số liệu từ Tổng cục Thống kêtính đến 20/03/2015, tín dụng cả nước tăng 1.25%. Trái với quý I hàng năm, tín dụng thường không tăng hoặc tăng trưởng âm. Nguyên nhân tín dụng tăng nhanh này nhờ nền kinh tế đã hồi phục, mặt bằng lãi suất đang ở mức thấp kích thích vay vốn.

Bênh cạnh đó, tăng trưởng huy động chỉ tăng nhẹ 0.94% trong khi cùng kỳ năm trước tăng 2.7%. Tổng phương tiện thanh toán tăng 2.09% (cùng kỳ năm trước là 3.56%). Ngoài việc tiền chảy vào sản xuất kinh doanh, USD tăng giá, trong khi lãi suất huy động tiền đồng liên tục giảm được cho là một trong những nguyên nhân khiến huy động vốn tăng chậm lại. Hiện vốn huy động và cho vay của các ngân hàng được cho là cân bằng.

Từ đầu tháng 03, nhiều ngân hàng đã đồng loạt hạ lãi suất huy động,phổ biến ở mức 4-5.4%/năm đối với tiền gửi VNĐ kỳ hạn 1 đến dưới 6 tháng.

Động thái giảm lãi suất huy động này cũng nằm trong chủ trương chung của toàn ngành ngân hàng khiNHNN dự tính có thể sẽ tiếp tục giảm lãi suất cho vay trung dài hạn thêm 1-1.5%/năm trong năm nay. Hiện mặt bằng lãi suất cho vay VNĐ hiện ở mức 7% đối với các lĩnh vực ưu tiên; các lĩnh vực sản xuất thông thường là 7-9% đối với ngắn hạn và 9.5-10% đối với trung và dài hạn.

Thị trường liên ngân hàng, lãi suất tăng ở hầu hết các kỳ hạn chủ chốt, giao dịch chủ yếu tập trung kỳ hạn qua đêm.

Tháng 3/2015, thị trường sơ cấp huy động được 15,618 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, tỷ lệ trúng thầu đạt 51.21% giảm mạnh từ mức 91.9% của tháng trước. Lãi suất trúng thầu đồng loạt giảm ở tất cả các kỳ hạn so với tháng trước.

Thị trường thứ cấp, tổng giá trị giao dịch là 122,891 tỷ đồng, tăng gần gấp 3 lần so với tháng trướcGiá trị giao dịch Outright của tháng 3 đạt 88,853 tỷ đồng, chiếm 72.3%. Giao dịch TPCP đạt 98,714 tỷ đồng, chiếm 80.33%.

Lợi suất giao dịch TPCP cuối tháng 3 đã tăng ở tất cả các kỳ hạn so với tháng trước: 1 năm +31.5 điểm, 2 năm +30.9 điểm, 3 năm +31.8 điểm, 5 năm +17.3 điểm, 7 năm +7 điểm và 10 năm -1.4 điểm.

Trong tháng 03, trên thị trường ngoại hối, tỷ giá có nhiều thời điểm biến động tăng mạnh trước áp lực tăng cao của đồng USD. Các NHTM đã bất ngờ điều chỉnh tỷ giá tăng đến 21,420-21,580 đồng/USD ngày 16/3 (tuy nhiên vẫn còn thấp hơn mức trần 21,672 đồng/USD). Thị trường tự do, tỷ giá có thời điểm lên mức 21,800 đồng/USD.

Trước diễn biến này, chiều ngày 25/3, NHNN đã chính thức đưa ra thông điệp ổn định thị trường khi khẳng định sẽ không điều chỉnh tý giá mà tiếp tục điều hành ổn định tỷ giá giai đoạn này. Tính đến thời điểm cuối tháng 03, tỷ giá bán USD của VCB ở mức 21,590 đồng/USD. Thị trường tự do, tỷ giá VND/USD tăng cao ở mức 21,640 chiều bán ra.

Theo Hiệp Hộicác Nhà sản xuất Ôtô VN (VAMA), trong tháng 02/2015 doanh số bán hàng của toàn thị trường đạt 12,329 xe, giảm 38% so với tháng 1/2015 và tăng 69% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh số xdu lịchđạt 8,899 xe, giảm 35%so với tháng trước và doanh số xe thương mạiđạt 3,430 xe, giảm 46%. Sản lượng xe lắp ráp trong nước đạt 7,914 xe, giảm 41% so với tháng trước, số lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc là 4,415 xe, giảm 32%.

Tính chung 02 tháng đầu năm, doanh số bán hàng toàn thị trường tăng 76% so với cùng kỳ năm trước.

Giá cả hàng hóa tháng 02/2015 tăng 5.5% so với tháng trước và là mức tăng lần đầu tiên trong vòng 8 tháng qua, chủ yếu phản ánh sự phục hồi mạnh của giá dầu. Giá cả hàng hóa phi nhiên liệu giảm 2.2%, ảnh hưởng bởi sự tăng giá của đồng đô la Mỹ (khoảng 1.3%) và nhu cầu tăng chậm của Trung Quốc.

Giá dầu thô đã tăng 15.8% trong tháng 02, trung bình ở mức 54.9 $/thùng do nhu cầu tăng cao và một số biến động trong nguồn cung, thấp hơn 55% kể từ tháng 6/2014. Giá khí đốt tự nhiên ở Mỹ đã giảm 4.3% trong tháng 02, bình quân ở mức 2.85$/mmbtu do trữ lượng dồi dào mặc dù nhu cầu sửi ấm tăng, dự kiến giá sẽ giảm trong tháng 03 khi mùa lạnh bắt đầu qua.

Giá hàng hóa nông nghiệp đã giảm 2.2% trong tháng 02, là tháng giảm thứ 9 liên tiếp do nguồn cung dồi dào ở hầu hết các mặt hàng. Mức giảm mạnh nhất ở thịt heo (-8%), thịt bò (-10%), đậu nành và bột đậu nành (-7%), cà phê Arabica (-8%), lúa mì (-5%), đường (-4%)… Trong khi giá cao su tăng 9% do giảm sản lượng theo mùa ở Thái Lan.

Giá hàng hóa kim loại giảm 2.2% trong tháng 02 và là tháng giảm thứ 7 liên tiếp do nhu cầu tăng chậm lại ở Trung Quốc và nguồn cung tiếp tục tăng. Mức giảm khá lớn ở quặng sắt (-7%), nikel (-2%), đồng (-2%) trong khi uranium tăng 6% do gián đoạn nguồn cung ở Úc.

DIỄN BIẾN CHỈ SỐ GIÁ MỘT SỐ HÀNG HÓA THẾ GIỚI THÁNG 3 (NĂM 2010=100)

Thị trường chứng khoán trong tháng 3 chứng kiến sự sụt giảm tương đối mạnh của cả 2 chỉ số chính.

VNINDEX kết thúc tháng 3 ở mức 551.13 điểm, giảm 41.44 điểm, tương đương giảm 7% so với cuối tháng trước. Thanh khoản trung bình trong tháng đạt 1,556.4 tỷ đồng/phiên, tăng 27.8% so với thanh khoản trung bình tháng trước.

Tương tự, HNXINDEX giảm 3.5 điểm, tương đương giảm 4% so với cuối tháng trước. Thanh khoản trung bình trong tháng đạt 514.9 tỷ đồng/phiên, tăng 18.4% so với tháng trước.

Mặc dù thanh khoản tháng 3 có cải thiện so với tháng 2 (tháng có kỳ nghỉ lễ tết nguyên đán) nhưng vẫn ở mức thấp so với giai đoạn trước. Tính chung cho cả Quý 1/2015, thanh khoản trung bình chỉ đạt 1,489 tỷ đồng/phiên trên HSX và 531.8 tỷ đồng/phiên trên HNX, lần lượt giảm 26% và 37% so với thanh khoản trung bình Quý 4/2014.

Nguyên nhân theo chúng tôi có thể do (1) những thay đổi pháp lý nhắm vào dòng tiền đã chặn 1 lượng lớn tiền nóngvào chứng khoán; (2) thanh khoản của thị trường bất động sản cải thiện đã hút một lượng tiền đáng kể từ thị trường và (3)một lượng vốn lớn của nhà đầu tư trên thị trường bị “chôn” vào các đợt phát hành “khủng” thời gian qua…

Sau khi mua ròng 1,162 tỷ đồng trong tháng 2, nhà đầu tư nước ngoài quay lại bán ròng trong tháng 3 với tổng giá trị 926 tỷ đồng trên cả 2 sàn. Luỹ kế Quý 1, khối ngoại mua ròng 57 tỷ đồng, giảm mạnh so với con số mua ròng 800 tỷ cùng kỳ năm trước.

Top 5 cổ phiếu được khối ngoại mua ròng mạnh nhất trong tháng bao gồm KBC (318 tỷ), KDC (278.2 tỷ), MWG (173.6 tỷ), BID (124.6 tỷ) và CTG (97.6 tỷ). Trong khi đó Top 5 cổ phiếu bị khối ngoại bán ròng mạnh nhất gồm PVD (-432.4 tỷ), GAS (-359.8 tỷ), HPG (-247.4 tỷ), VCB (-246.8 tỷ) và VIC (-208.4 tỷ).

Đáng chú ý trong tháng là giao dịch của quỹ VNM ETF. Ngoài việc gây bất ngờ trong kỳ review danh mục khi loại 2 cổ phiếu ngoại và thêm mới 2 cổ phiếu nội (KBC, KDC), quỹ này liên tiếp bị rút vốn trong nửa cuối tháng, là nguyên nhân chính dẫn đến kết quả bán ròng của khối ngoại và tâm lý e ngại trên thị trường. Cụ thể trong tháng 3 quỹ này bị rút ròng 2,450,000 chứng chỉ quỹ, tương đương khoảng 41.6 triệu USD (~890 tỷ đồng). Đặc biệt có những phiên quỹ này bị rút vốn với khối lượng kỷ lục (1 triệu chứng chỉ quỹ) gây ra những tác động tiêu cực lên tâm lý thị trường.

Trong tháng 3, sự sụt giảm xảy ra ở hầu hết các nhóm ngành, ngoại trừ nhóm Bất động sản (+4%) và Thương mại (+3%). Ngành thuỷ sản có mức độ sụt giảm mạnh nhất (-15%), tiếp theo là Ngành Bảo hiểm (-12%), Khai khoáng (-10%)…

Ngành Ngân hàng giảm 6% trong tháng 3, tuy vậy vẫn giữ được mức tăng 20% so với đầu năm. Tiếp đến là ngành Cơ khí (+11%), Sản xuất thiết bị điện – điện tử - viễn thông (+9%)… Công Nghệ thông tin – Truyền Thông (-21%), Sản xuất tôn thép (-17%)… là những ngành có mức độ sụt giảm mạnh nhất so với đầu năm

XU HƯỚNG THỊ TRƯỜNG THÁNG 4/2015

Thị trường tiếp tục bước vào tháng 4 với những phiên giao dịch ảm đạm. Điểm số mặc dù có dấu hiệu ngừng rơi nhưng thanh khoản chưa có dấu hiệu cải thiện. Quỹ VNM ETF tiếp tục bị rút ròng tạo tâm lý dè chừng trên thị trường.

Sự nới lỏng tại Trung Quốc, Châu Âu, Nhật đã làm đồng nội tệ tại những quốc gia này sụt giảm mạnh so với USD.Trong khi đó, Ngân hàng nhà nước vẫn kiên định đi theo chính sách tỷ giá neo ổn định VND với USD, đã làm cho chứng khoán Việt Nam kém hấp dẫn một cách tương đối so với những thị trường khác, đặc biệt là với các quỹ đầu tư chỉ số ETFs, dẫn đến động thái rút ròng của dòng tiền nóng này.

Mặc dù vậy, chúng tôi cho tằng, thị trường giảm điểm trong giai đoạn qua đã giúp nhiều cổ phiếu về vùng định giá rẻ, thêm vào đó, tâm lý sợ hãi đang bao trùm. Nghiên cứu lịch sử của 2 chỉ báo này, chúng tôi nhận thấy “đây là vùng mua có rủi ro trung hạn thấp nhất”. Ngoài ra, các chỉ báo kinh tế vĩ mô cho thấy nền kinh tế trong nước vẫn duy trì tốc độ phục hồi tốt, chúng tôi khuyến nghị nhà đầu tư nên gia tăng tỷ trọng cổ phiếu.

Tags: ,

Economics | StockAdvisory

Báo cáo chiến lược tháng 04/2015 phần 1

by finandlife09/04/2015 17:21

Tóm tắt diễn biến vĩ mô tháng 03/2015:

§     Tăng trưởng kinh tế phục hồi mạnh trong quý 1 với GDP tăng 6.03% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất của quý 1 trong vòng 5 năm qua.

§     Lạm phát ở mức thấp khi CPI tháng 03/2015 tăng nhẹ 0.15% so với tháng trước, bình quân quý 1 tăng 0.74% so với cùng kỳ là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây.

§     Sản xuất tiếp tục cải thiện nhờ chi phí đầu vào giảm, chỉ số sản xuất công nghiệp IIP quý 1 tăng 9.1%, (cùng kỳ năm trước tăng 5.3%), chỉ số PMI đạt 50.3 điểm. Ước tính nhập siêu 1.8 tỷ USD trong quý 1 để phục vụ sản xuất, gia công, lắp ráp.

§     Cầu tiêu dùng cải thiện khi tổng mức bán lẻ hàng hóa quý 1 tăng 9.2% so với cùng kỳ (sau khi loại yếu tố giá).

§     FDI cả cấp mới và tăng vốn đến 20/3 ước đạt 1.84 tỷ USD, bằng 55.1% cùng kỳ, FDI giải ngân đạt 3.05 tỷ USD, tăng 7%.

§     Thị trường tiền tệ tiếp tục được duy trì ổn định. Khu vực trái phiếu chính phủ, lợi suất giao dịch tăng ở tất cả kỳ hạn.

Tóm tắt diễn biến thị trường và nhận định:

§     VNINDEX đóng cửa ở mức 551.13 điểm, giảm 41.44 điểm, tương đương giảm 7% so với cuối tháng trước. HNXINDEX giảm 3.5 điểm, tương đương giảm 4% so với cuối tháng trước.

§     Trong tháng 3, sự sụt giảm xảy ra ở hầu hết các nhóm ngành, ngoại trừ nhóm Bất động sản (+4%) và Thương mại (+3%). Ngành thuỷ sản có mức độ sụt giảm mạnh nhất (-15%), tiếp theo là Ngành Bảo hiểm (-12%), Khai khoáng (-10%)…

§     Thị trường tiếp tục bước vào tháng 4 với những phiên giao dịch ảm đạm. Điểm số mặc dù có dấu hiệu ngừng rơi nhưng thanh khoản chưa có dấu hiệu cải thiện. Quỹ VNM ETF tiếp tục bị rút ròng tạo tâm lý dè chừng trên thị trường.

§     Chúng tôi cho tằng, thị trường giảm điểm trong giai đoạn qua đã giúp nhiều cổ phiếu về vùng định giá rẻ, thêm vào đó, tâm lý sợ hãi đang bao trùm. Nghiên cứu lịch sử của 2 chỉ báo này, chúng tôi nhận thấy “đây là vùng mua có rủi ro trung hạn thấp nhất”. Ngoài ra, các chỉ báo kinh tế vĩ mô cho thấy nền kinh tế trong nước vẫn duy trì tốc độ phục hồi tốt, chúng tôi khuyến nghị nhà đầu tư nên gia tăng tỷ trọng cổ phiếu.

----------------------------

Các chỉ số chính:

§     Sản lượng sản xuất đạt 53.4 điểm, tăng từ 53.2 điểm tháng trước

§     Đơn đặt hàng mới tăng nhẹ lên 52.3 từ mức 52.2 tháng trước

§     Đơn đặt hàng xuất tăng nhẹ lên 50.9 từ mức 50.8 tháng trước

§     Việc làm mới đạt 50.7 điểm, thấp hơn 51.0 điểm của tháng trước

§     Giá đầu vào tăng đạt 49 điểm, cao hơn 48.7 điểm của tháng trước

§     Giá đầu ra đạt 49.7 điểm tăng nhẹ so với tháng trước (49.6 điểm) 

Trong tháng 03/2015, lĩnh vực sản xuất toàn cầu tiếp tục mở rộng nhưng ở mức khiêm tốn và vẫn chưa ổn định, PMI đạt 51.8 điểm, thấp hơn một chút so với mức 51.9 điểm trong tháng 02, là tháng tăng trưởng thứ 28 liên tiếp.

Tại Mỹ, PMI đạt mức cao nhất trong 5 tháng qua nhờ sự tăng nhanh hơn trong sản xuất và lượng đơn đặt hàng mới.

Khu vực Eurozone, sản xuất tăng mạnh với mức PMI cao nhất trong vòng 10 tháng qua và cao hơn trung bình toàn cầu lần đầu kể từ tháng 4/2014. Trong đó, sản xuất mở rộng tại Đức, Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan và Ireland trong khi co hẹp tại Pháp, Áo, và Hy Lạp.

Tại châu Á, tăng trưởng sản xuất đã dịu bớt. Trong đó PMI dưới mốc 50 tại Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia trong khi mở rộng tại Nhật Bản, Đài Loan và Việt Nam nhưng là yếu hơn so với tháng trước.

Chi phí đầu vào giảm nhẹ trong tháng 03, mức giảm đã dịu so với hai tháng trước, xu hướng tương tự trong giá bán ra.

Nhìn chung, sản xuất toàn cầu tiếp tục mở rộng nhưng tốc độ yếu hơn trong quý 1. Việc sản lượng sản xuất và lượng đơn đặt hàng mới duy trì mức tăng như những tháng gần đây và sự sụt giảm trong hàng tồn kho thành phẩm là những dấu hiện tích cực, kỳ vọng sự phục hồi sẽ tăng tốc trong quý 2.

 

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2015 ước tính tăng 6.03% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng cao nhất của quý I trong 5 năm qua.

Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8.35%, đóng góp nhiều nhất trong mức tăng chung là 2.82 điểm phần trăm. Trong đó, ngành công nghiệp tăng 9.01%, cao hơn nhiều so với mức tăng của một số năm trước, ngành xây dựng tăng 4.40%, thấp hơn mức tăng 5.93% của cùng kỳ năm trước.

Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 2.14%, đóng góp 0.28 điểm phần trăm. Trong đó, ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảng 71%) nhưng tăng thấp ở mức 1.54%, thủy sản tăng 3.38%, lâm nghiệp tăng 6.02%.

Khu vực dịch vụ tăng 5.82%, đóng góp 2.36 điểm phần trăm. Một số ngành có đóng góp lớn vào mức tăng trưởng chung: Bán buôn và bán lẻ tăng 7.11%; dịch vụ lưu trú và ăn uống +5.9%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 5.65%; hoạt động kinh doanh bất động sản cải thiện với mức tăng 2.55% (năm trước là 2.28%).

Về cơ cấu, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 12.35%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34.80%; khu vực dịch vụ chiếm 42.23%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10.62%.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 03/2015tăng 0.15% so với tháng trướcchủ yếu do ảnh hưởng từ nhu cầu tiêu dùng dịp lễ, Tết nên giá nhiều loại hàng hóa tăng. Mặt khác giá gas và giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh tăng cũng tác động vào CPI (đóng góp 0.04% vào mức tăng chung).

Nhóm hàng hóa và dịch vụ có giá tăng cao: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống +0.36%văn hóa, giải trí và du lịch +0.18%nhà ở và vật liệu xây dựng +0.16%.

Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác có giá tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Thiết bị đồ dùng gia đình +0.09%; thuốc và dịch vụ y tế +0.04%; giáo dục +0.01%; giao thông -0.31%; đồ uống và thuốc lá -0.11%; may mặc, mũ nón, giày dép -0.04%; bưu chính viễn thông -0.02%.

Tổng kết, CPI tháng 03/2015 giảm 0.10% so với tháng 12/2014 và tăng 0.93% so với cùng kỳ năm trướcbình quân quý I năm nay tăng 0.74% so với bình quân cùng kỳ năm 2014, đây là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại.

Theo dự báo từ UBGSTKQG, lạm phát cơ bản năm 2015 khoảng 3.5%. Trong điều kiện giá lương thực và năng lượng được dự báo giảm trong năm 2015, khả năng đạt mục tiêu 5% về lạm phát tổng thể sẽ phụ thuộc chủ yếu vào mức độ điều chỉnh giá điện. UBGSTCQG ước tính mức tăng giá điện bình quân 7.5% (ngày 16/3) có ảnh hưởng làm lạm phát cả năm tăng thêm khoảng 0.5 điểm %.

Những đặc điểm chính:

§     Sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng.

§     Chi phí đầu vào tiếp tục giảm mạnh.

§     Việc làm giảm nhẹ.      

Chỉ số PMI ngành sản xuất Việt Nam tháng 03/2015đạt 50.7 điểm, giảm so với mức 51.7 điểm của tháng trước, tuy nhiên vẫn cho thấy sự cải thiện về điều kiện hoạt động trong lĩnh vực sản xuất tháng thứ 19 liên tiếp.

Nhân tố chính giúp cải thiện các điều kiện kinh doanh là cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều tiếp tục tăng. Sản lượng đã tăng tháng tăng thứ 18 liên tiếp với mức tăng là mạnh. Số lượng đơn đặt hàng mới tăng nhưng mức tăng khiêm tốn. Trong đó, đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã tăng sau khi giảm trong tháng trước.

Việc làm ngành sản xuất đã giảm trong tháng 3 sau khi tăng liên tục trong sáu tháng qua, mức giảm là nhẹ một phần do thiếu hụt nhân công.

Chi phí đầu vào tiếp tục giảm mạnh chủ yếu do giá nhiên liệu giảm. Các công ty tiếp tục giảm giá đầu ra tuy nhiên mức giảm là chậm nhất trong 4 tháng qua. Tồn kho thành phẩm đã giảm và mức giảm là mạnh nhất kể từ tháng 6/2014.

Tổng kết, lĩnh vực sản xuất ở Việt Nam tiếp tục mở rộng vào thời điểm cuối quý I, khi các công ty bảo đảm có được số lượng đơn đặt hàng mới lớn hơn từ cả khách hàng trong nước và nước ngoài. Giá cả hàng hóa giảm trên thị trường thế giới tiếp tục góp phần làm giảm giá đầu vào, và nhờ đó các công ty có thể giảm giá bán đầu ra cho khách hàng.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 03 ước tính tăng 9.1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2015 tăng 9.1%, cao hơn nhiều so với mức tăng 5.3% của cùng kỳ năm trước.

Theo nhóm ngành, khai khoáng +6.7%, đóng góp 1.5 điểm phần trăm vào mức tăng chung; chế biến chế tạo +9.6% đóng góp 6.8 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện +12.1%, đóng góp 0.8 điểm phần trăm; cung cấp, xử lý nước thải, rác thải +7.8%, đóng góp 0.1 điểm phần trăm.

Một số ngành có chỉ số sản xuất quý I tăng cao so với cùng kỳ năm trước: SX xe có động cơ +42.9%; SX da và các sản phẩm có liên quan +26.1%; SX sản phẩm điện tử, máy tính và quang học +22.6%; SX giấy và các sản phẩm từ giấy +20.4%; dệt +14.7%.

Mức tăng chỉ số sản xuất công nghiệp tại một số địa phương: Thái Nguyên tiếp tục tăng cao ở mức 568.1%; Hải Phòng +15.1%; Quảng Nam +13.4%; Cần Thơ +13.4%; Đồng Nai +8.3%; Đà Nẵng +8.2%; Hà Nội +7.7%; Hải Dương +6.1%; Bình Dương +5.9%; TP.HCM+5.5%.

 

Tại thời điểm 01/03/2015, chỉ số hàng tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10.9% so với cùng thời điểm năm 2014, chỉ số sử dụng lao động tăng 5.4%.

Tổng mc bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 03ước đạt 253.5 nghìn tỷ đồnggiảm6.4% so với tháng trước và tăng 9.4% so với cùng kỳ năm trước.

Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa chiếm 77.3%, giảm 5.1% so với tháng trước và tăng 11.1% so với cùng kỳ năm trước. Do tháng 03 là tháng sau tết nên doanh thu một số ngành hàng giảm so với tháng trước: Lương thực, thực phẩm -8.4%; đồ dùng, dụng cụ gia đình -5.7%; phương tiện đi lại -5.1%; vật phẩm văn hoá giáo dục -3.3%; riêng nhóm hàng may mặc giảm nhiều ở mức 10,5%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú ăn uống chiếm 10.4%, giảm 17.3% so với tháng trước và tăng 3.3% so với cùng kỳ.

Doanh thu du lịch lữ hành chiếm 0.8%, giảm 7.9% so với tháng trước và giảm 29.4% so với cùng kỳ. Một số địa phương tăng cao: Thừa Thiên Huế +17%, TP. HCM +3.5%, Hà Nội +0.8%, Bà Rịa Vũng Tàu +0.6%.

Doanh thu dịch vụ khác chiếm 11.6%, giảm 3.9% so với tháng trước và tăng 9.7% so với cùng kỳ.

 

Tính chung 3 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 790.8 nghìn tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ, loại trừ yếu tố giá tăng 9.2%, cao hơn mức tăng 5.1% của cùng kỳ năm 2014. 

 

VFS Research

Tags: ,

Economics | StockAdvisory

NKG - CẬP NHẬT ĐHCĐTN 2015

by finandlife08/04/2015 10:09

Ngày 4/4 vừa qua, NKG tiến hành họp ĐHCĐ TN năm 2015 tại văn phòng công ty với một số điểm đáng chú ý như sau:

-                      KQKD 2014 sau kiểm toán không chênh lệch nhiều so với số liệu cty công bố trước đó với DTT đạt  5,835 tỷ đồng(+25% yoy) và LNST đạt 76.6 tỷ đồng (+48% yoy). Có được kết quả thành công trong năm 2014 nhờ đầu ra tiếp tục thuận lợi, sản lượng bán ra tăng trưởng mạnh (~45%) so với cùng kỳ. Doanh số tăng cả phân khúc nội địa (+20%) và xuất khẩu (+36%) trong đó xuất khẩu đóng góp tăng đáng kể vào DT chung với tỉ lệ 41% (năm 2013 là 37%). Mặc dù vậy, biên lãi gộp (BLG) năm 2014 chỉ đạt 5.4% giảm so với năm 2013 (6.5%), nguyên nhân do doanh thu từ các sản phẩm thép với BLG thấp ( 4-5%), tăng mạnh hơn so với các sản phẩm từ tôn có BLG cao hơn  (trên 9%). Chúng tôi ước tính giá bán ra bình quân của toàn cty năm 2014 khoảng 18.8 tr.đồng/tấn giảm 13.6% so với giá bán năm 2013. Và tốc độ giảm giá bán này mạnh hơn tốc độ giảm giá của nguyên liệu đầu vào chính của cty là HRC (-11.4%) trong năm 2014. Có vẻ như nguyên liệu HRC trong xu hướng giảm lại ít nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến KQKD của cty  hơn là tích cực mà đầu tiên là áp lực giảm giá bán ra cho khách hàng.

-                      Dự án Nam Kim 2 đầu tư trong năm 2014: Dây chuyền cán nguội (công nghệ Đức) công suất 200k tấn/năm đã bắt đầu cho sản phẩm từ T3.2015. Dây chuyền mạ lạnh công suất 100k tấn/năm dự kiến cho ra sản phẩm vào T6.2015. Dựa vào năng lực hiện tại cộng thêm các sản phẩm của các dây chuyền mới đầu tư, chúng tôi ước tính trong năm 2015 cty sẽ tăng thêm khoảng 30% tổng sản lượng bán ra so với năm 2014.

-                      Cổ tức 2014: không như chúng tôi dự đoán trước đó khi cty không chia tiền mặt cho năm 2014, mà thay vào đó chia 8% bằng cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu. Điều này có thể được giải thích bởi lý do cty muốn tiếp tục giữ lại tiền để tái đầu tư mở rộng sản xuất cho năm 2015.

-                      Kế hoạch 2015: kế hoạch kinh doanh cty đặt ra với mức tăng trưởng khá ấn tượng

+ Doanh thu: 7,800 tỷ đồng (+34% yoy)

+ Sản lượng: 400,000 tấn (+30% yoy)

+ Lợi nhuận sau thuế: 120 – 150 tỷ đồng. (+57%;+ 96% yoy)

ð    EPS forward(chưa tính thêm lượng phát hành mới) cuối 2015: 3,000 – 3,700 đồng.

 

-                      Triến khai dự án Nam Kim 3: Dây chuyển tẩy rửa 450,000 tấn/năm. Dây chuyền cán nguội 450,000 tấn/năm. Dây chuyền mạ kẽm dày 350,000 tấn/năm. Dây chuyển xả băng 150,000 tấn năm. Dây chuyền mạ màu 120,000 tấn/năm. Dây chuyền mạ hợp kim nhôm kẽm 150,000 tấn/năm. Nâng gần như gấp đôi quy mô hiện tại của cty.

Tổng vốn đầu tư đăng ký: 2,330 tỷ đồng trong đó chủ yếu là vốn vay, vốn góp của cty là 466 tỷ đồng, thời gian góp T5.2015. Dự án đầu tư được chia làm 3 giai đoạn thực hiện cụ thể:

+ Giai đoạn 1: 730 tỷ đồng

+ Giai đoạn 2: 1,000 tỷ đồng

+ Giai đoạn 3: 600 tỷ đồng

Tiến độ dự kiến thực hiện dự án:

+ Lắp đặt máy móc: T5.2015

+ Sản xuất chính thức: T5.2016

-                      Phát hành thêm 20,798,000 cổ phiếu tăng vốn điều lệ, chia làm 2 đợt:

+ Đợt 1: phát hành 798,000 CP ESOP với giá phát hành 10,000 đồng/CP.

+ Đợt 2: phát hành 20,000,000 CP cho Cổ đông chiến lược với giá >=15,000 đồng/CPĐối tác đầu tư với giá >= 10,000 đồng/CP. Công ty cho biết vẫn đang tìm đối tác chào bán và chưa có bất cứ thông tin cụ thể về tỉ lệ phân phối chi tiết như thế nào? Chúng tôi cho rằng tỉ lệ thực tế này rất quan trọng và cần được theo dõi sát bởi nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro pha loãng của cổ đông hiện tại.

-                      Cập nhật KQKD Q1.2015:

+ Sản lượng: ~70,000 tấn (-10% yoy)

+ Doanh thu: 1,158 tỷ đồng (-21% yoy)

+ LNST: 25 tỷ đồng (+148% yoy)

ð    EPS trượt 4 quý gần nhất đạt 2,289 đồng.

Kết luận:

Triển vọng tăng trưởng của cty trong năm nay là hoàn toàn có cơ sở, tuy nhiên mức kế hoạch kinh doanh mà công ty đưa ra theo chúng tôi là hơi quá lạc quan bởi tính toán dựa trên giả định mức giá bán ra tăng so với năm 2014. Trên thực tế, giá HRC Q1.2015 đã giảm hơn 20% so với cùng kỳ Q1 năm trước và chưa có dấu hiệu tạo đáy. Trên cơ sở thận trọng, chúng tôi cho rằng áp lực giảm từ giá HRC sẽ tiếp tục khiến cty điều chỉnh giảm giá bán thêm 5% trong năm 2015. Theo đó, DTT sẽ đạt 7,160 tỷ đồng, LNST xấp xỉ 100 tỷ đồng và mức EPS forward (chưa pha loãng) sẽ là 2,500 đồng.

Việc phát hành thêm một lượng lớn cổ phiếu trong khi giá phát hành cũng như tỷ lệ phân phối chưa rõ ràng khiến chúng tôi khá lo ngại trước mắt. Do đó, chúng tôi không khuyến nghị mua vào đối với cổ phiếu này cho đến khi thông tin có được rõ ràng hơn.

 

Nguồn: VFS Research

Tags:

Stocks

DISCLAIMER

I am currently serving as an Investment Manager at Vietcap Securities JSC, leveraging 16 years of experience in investment analysis. My journey began as a junior analyst at a fund in 2007, allowing me to cultivate a profound understanding of Vietnam's macroeconomics, conduct meticulous equity research, and actively pursue lucrative investment opportunities. Furthermore, I hold the position of Head of Derivatives, equipped with extensive knowledge and expertise in derivatives, ETFs, and CWs.

 

To document my insights and share personal perspectives, I maintain a private blog where I store valuable information. However, it is essential to acknowledge that the content provided on my blog is solely based on my own opinions and does not carry a guarantee of certainty. Consequently, I cannot assume responsibility for any trading or investing activities carried out based on the information shared. Nonetheless, I wholeheartedly welcome any questions or inquiries you may have. You can contact me via email at thuong.huynhngoc@gmail.com.

 

Thank you for your understanding, and I eagerly anticipate engaging with you on topics concerning investments and finance.

Designed by: Nguyễn Chí Hiếu