Rủi ro tỷ giá tháng 5/2019

by finandlife16/05/2019 16:52

 

Rủi ro CNY phá giá so với USD tạo áp lực lên VND là thực, tuy vậy rủi ro này không quá lớn, tại dư địa của SBV đủ mạnh để can thiệp, dự trữ ngoại hối hiện 65 tỷ USD, trong khi, tổng dư nợ usd toàn hệ thông ngân hàng chỉ khoảng 25 tỷ USD.

Rủi ro Mỹ đưa VN vào danh sách thao túng đồng tiền.

Có 3 lý do mà Mỹ liệt kê mình vào danh sách manipulated currency:

1. Có thặng dư thương mại lớn với Mỹ

2. Dự trữ ngoại hối tăng nhanh

3. Cán cân vãng lai thặng dư >3%

Nhưng do GDP VN chưa tới 1% so với Mỹ nên có lẽ chưa vào tầm ngắm của Mỹ.

Trump PR cho VN, làm nhiều nhà đầu tư phân tích kỹ hơn về VN, nếu họ phân tích kỹ, sẽ thấy tình hình vĩ mô VN đang rất ổn, trong bối cạnh khó tìm kiếm thị trường bỏ vốn, VN có thể sẽ có thể được hưởng lợi.

FINANDLIFE

Tags: ,

Economics

Đọc giúp bạn|Số liệu kinh tế 10 năm qua

by finandlife07/04/2016 08:43

Theo VNExpress

Tags:

Economics

Thống kê kết quả kinh doanh Quý 3 năm 2015

by finandlife18/11/2015 15:31

Kết quả kinh doanh chung

Nếu như quý 2/2015, lợi nhuận của các công ty niêm yết tăng trưởng rất ấn tượng (một phần nhờ yếu tố đột biến từ KDC) thì đến quý 3 năm nay, kết quả kinh doanh nhìn chung khá ảm đạm: Thống kê tổng doanh thu của 549 doanh nghiệp niêm yết đạt 218,800 tỷ đồng, chỉ tăng 3.7% so với cùng kỳ 2014. Lợi nhuận sau thuế đạt 17,500 tỷ đồng, tăng 4% so với cùng kỳ 2014. Mặc dù đây là kết quả kinh doanh có tăng trưởng, nhưng so với quý 2/2015, và đặc biệt là so với mặt bằng chung của nền kinh tế (GDP tăng trưởng 6.8%) thì lại là một kết quả hơi thất vọng.

Biên lợi nhuận gộp của các công ty trong quý này mở rộng thêm 2%, từ mức 17% quý 3 năm trước lên 19%. Lãi gộp đạt 41,000 tỷ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ.

Mặc dù biên lợi nhuận gộp cải thiện, mở rộng thêm 2% so với cùng kỳ, nhưng chi phí tài chính tăng vọt 47% (tổng chi phí tài chính kỳ này đạt mức 7,500 tỷ đồng) và chi phí vận hành (SG&A) tăng gần 7% so với cùng kỳ (tổng chi phí SG&A của các công ty niêm yết quý 3 năm nay đạt 26,600 tỷ đồng), cao hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng của doanh thu, làm lợi nhuận sau thuế của các công ty niêm yết kỳ này tăng trưởng khá thấp, đạt 17,500 tỷ đồng, tăng 4% so với cùng kỳ.

Ngoài yếu tố giá dầu thế giới giảm trung bình hơn 40% đã làm doanh thu và lợi nhuận của nhiều công ty dầu khí giảm đáng kể và kéo kết quả kinh doanh chung đi xuống, thì biến động lớn về tỷ giá trong kỳ đã làm chi phí tài chính tăng vọt 47%, góp phần làm giảm tốc lợi nhuận sau thuế chung của các công ty. 

Quý 3 năm nay, GAS vẫn là công ty có quy mô doanh thu và lợi nhuận lớn nhất, và cũng chính GAS là nguyên nhân làm kết quả kinh doanh chung của quý này tăng chậm lại. Doanh thu và lợi nhuận của GAS quý 3 năm nay lần lượt chỉ đạt  15,700 tỷ đồng và 2,300 tỷ đồng, sụt giảm lần lượt -20% và -21% so với cùng kỳ.

Mặc dù quy mô doanh thu của VNM (công ty có quy mô doanh thu và lợi nhuận đứng thứ 2 trên sàn) chỉ bằng 2/3 so với doanh thu của GAS, nhưng hoạt động kinh doanh tiếp tục khởi sắc giúp doanh thu và lãi gộp của VNM tăng trưởng lần lượt +21% và +44% so với cùng kỳ. Doanh thu tăng cao, biên lợi nhuận mở rộng lên đến mức 41.2%, giúp lợi nhuận sau thuế của VNM tăng vọt 55% so với cùng kỳ, đạt 2,135 tỷ đồng – gần đuổi kịp lợi nhuận của GAS.

Quý 3 năm nay, OGC đã gây bất ngờ khi lợi nhuận sau thuế tăng vọt 1,400% so với cùng kỳ, đạt 1,455 tỷ đồng. Với kết quả đột biến nhờ thương vụ chuyển nhượng Blue Star này, OGC vươn lên đứng vị trí thứ 3 về quy mô lợi nhuận, chỉ sau GAS và VNM.

Như vậy, quý 3 năm nay, VNM và OGC chính là “cứu cánh” cho kết quả kinh doanh chung trong bối cảnh 2 ông lớn ngành dầu khí là GAS và PVD đang suy giảm nhanh.

Số lượng công ty thua lỗ tăng nhẹ

Quý 3 năm nay, trong tổng số 549 công ty niêm yết được thống kê, có 496 công ty kinh doanh có lãi, chiếm 90%. Số lượng công ty thua lỗ dù chỉ có 53 công ty, nhưng đây lại là một dấu hiệu mới không mấy tích cực khi mà cùng kỳ quý 3/2014, chỉ có có 43 công ty thua lỗ.

 

Mức thua lỗ trung bình giảm xuống

Mặc dù số công ty thua lỗ có tăng, nhưng mức thua lỗ bình quân trong quý 3 năm nay lại giảm 25% so với cùng kỳ quý 3/2014, chỉ còn lỗ bình quân 11 tỷ đồng/công ty

Thống kê về doanh thu theo ngành, quý 3 năm nay ngành ô tô vẫn tiếp tục dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng doanh thu với tốc độ tăng trưởng trung bình lên đến 55% so với cùng kỳ. SVC, TMT và HHS vẫn là 3 công ty dẫn đầu ngành.

 

Doanh thu của ngành thực phẩm trong quý này tăng mạnh 28% so với cùng kỳ. Hai công ty đầu ngành là VNM và MSN vẫn là 2 cái tên có ảnh ưởng chi phối đến kết quả chung của ngành.

Đứng thứ 3 về tốc độ tăng trưởng doanh thu trong quý 3 năm nay là ngành kho bãi và hậu cần. Hoạt động xuất khẩu vẫn là động lực cho tăng trưởng kinh tế và các công ty kho bãi, cảng biển lớn như GMD, VSC, PHP… thêm 1 quý có doanh thu tăng trưởng cao hơn đáng kể so với mặt bằng chung của nền kinh tế. 

Thống kê về lợi nhuận sau thuế của các ngành, sản xuất ô tô đứng đầu với tốc độ tăng trưởng lợi nhuận lên đến 133% so với cùng kỳ. Cả 4 công ty hàng đầu trong ngành là SVC, TMT, HHS và HTL đều tăng trưởng rất cao, từ 100% (HHS) đến hơn 200% (SVC).

Lĩnh vực cảng biển, kho bãi đứng thứ 2 trong quý này về tốc độ tăng trưởng lợi nhuận sau thuế với con số 87%. Bốn công ty đầu ngành là GMD, PHP, VSC, DVP đều tăng trưởng rất cao từ 44% (DVP) cho đến 115% (GMD).

Ngành hàng cá nhân xếp thứ 3 về tốc độ tăng trưởng lợi nhuận với con số 53%. Trong khi giá dầu giảm làm nhiều công ty nhóm dầu khí suy giảm mạnh (GAS, PVD…), thì một số các công ty trong ngành hàng cá nhân như LIX, NET lại hưởng lợi đáng kể nhờ chi phí đầu vào giảm và tăng trưởng rất tốt trong quý này.

Quý 3 năm nay, ngành xây dựng đã vươn lên nhanh chóng để xếp vị trí thứ 4 với tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 40%. Hai đại gia tư nhân hàng đầu trong ngành xây dựng là CTD và HBC quý 3 năm nay tăng trưởng với tốc độ rất cao: lần lượt đạt 124% và 300%

 

Lĩnh vực dầu khí trong quý 3 năm nay tiếp tục đội sổ về tốc độ suy giảm doanh thu, giá dầu thế giới đang thấp hơn 40%-50% so với cùng kỳ, làm những cái tên một thời huy hoàng (về tăng trưởng doanh thu) như GAS, PVD, PGS… nay xoay chuyển hoàn toàn thành những công ty suy giảm nhanh nhất về doanh thu.

Nếu giá dầu thế giới làm lĩnh vực dầu khí suy giảm mạnh nhất về doanh thu, thì biến động đáng kể về tỷ giá trong thời gian qua lại là nhân tố làm ngành sản xuất và phân phối điện bất ngờ đứng vị trí số 1 về suy giảm lợi nhuận. PPC và NT2 có khoản lỗ chênh lệch tỷ giá thuộc dạng “khủng” lần lượt là 214 tỷ đồng và 108 tỷ đồng, đây chính là nguyên nhân làm cả ngành điện suy giảm mạnh về lợi nhuận trong quý 3 năm nay.

VFS Research

Tags: ,

Economics | StockAdvisory

Thống kê kết quả kinh doanh quý 2 năm 2015

by finandlife24/08/2015 09:58

KẾT QUẢ KINH DOANH CHUNG

Kết quả sản xuất kinh doanh chung trong quý 2 năm nay của các công ty niêm yết ghi nhận sự đột phá rất ấn tượng về lợi nhuận sau thuế. Trong khi doanh thu thuần của 581 công ty công bố báo cáo tài chính quý 2 đạt 244,000 tỷ đồng, chỉ tăng 9% so với cùng kỳ, thì tổng lợi nhuận sau thuế lại đạt mức 23,443 tỷ đồng, tăng 63% so với cùng kỳ quý 2/2014. Trong khi phần lớn các công ty này có lợi nhuận chung giảm gần 1% ngay trong quý 1/2015 vừa qua, thì mức tăng 63% quý này có thể nói là rất ấn tượng.

Về doanh thu, GAS vẫn là công ty có doanh thu quý 2 lớn nhất với mức 15,780 tỷ đồng, giảm 16% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù ảnh hưởng suy giảm từ GAS là không nhỏ, nhưng nhóm các công ty lớn đứng ngay sau GAS lại tăng trưởng rất tốt trong kỳ này, đáng chú ý nhất là bộ tứ: VNM, HPG, MSN và MWG với tốc độ tăng trưởng doanh thu từ 14% đến 66%.

Quý 2 năm nay, biên lợi nhuận của các công ty niêm yết nhìn chung được cải thiện rất tích cực. Lợi nhuận gộp của 581 công ty đạt gần 43,000 tỷ đồng, tăng gần 20% so với cùng kỳ năm trước. Biên lợi nhuận gộp đã mở rộng đáng kể từ  16% trong quý 2/2014 lên gần 18% trong quý 2 năm nay.

 

Đóng góp đáng kể vào mức tăng lãi gộp chung phải kể đến đầu tiên là VNM. Quý 2 năm nay, dù doanh thu chỉ tăng 14%, nhưng nhờ giá sữa nguyên liệu đầu vào giảm, VNM đã cắt giảm được 8% chi phí nguyên liệu, giúp lãi gộp của công ty tăng vọt gần 40% so với cùng kỳ và đóng góp nhiều nhất cho lãi gộp chung của các công ty niêm yết. 

Trong kỳ này, mặc dù lãi gộp chung của các công ty niêm yết chỉ tăng 19% so với cùng kỳ quý 2/2014, nhưng lợi nhuận sau thuế lại tăng đến 63%. Nguyên nhân chính lại đến từ cái tên KDC chứ không phải đến từ sữa của VNM hay bò của HAG. Quý 2 năm nay, KDC chính thức chuyển nhượng 80% BKD và ghi nhận một khoản doanh thu tài chính lên đến gần 6,600 tỷ đồng, làm lợi nhuận sau thuế của công ty tăng vọt lên đến  8,254% so với cùng kỳ, đạt mức 5,123 tỷ đồng – lớn gấp 2 lần lợi nhuận sau thuế của GAS. Một số công ty khác có lợi nhuận sau thuế lớn và tăng trưởng cao như   VNM, HPG, HAG, CII, MSN… cũng góp đã phần không nhỏ để cùng KDC giúp lợi nhuận chung của các công ty niêm yết đạt được mức tăng trưởng ấn tượng trong kỳ này: đạt 23,443 tỷ đồng, tăng 63% so với cùng kỳ quý 2/2014, bất chấp lợi nhuận sau thuế của “ông lớn” GAS suy giảm ở mức kỷ lục: -20%.

Như vậy, KDC và GAS là hai công ty ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả chung của các công ty niêm yết trong kỳ này. Quy mô rất lớn của GAS và sự đột biến của KDC đã làm thay đổi đáng kể kết quả chung của 581 công ty. Nếu loại bỏ hai công ty này. Doanh thu và lợi nhuận sau thuế trong kỳ này của 579 công ty lần lượt đạt 204,600 tỷ đồng và 11,130 tỷ đồng, tăng trưởng lần lượt 11% và 41% so với cùng kỳ quý 2/2014.

 

Ngay cả khi loại bỏ hai công ty trên, mức tăng lợi nhuận trong kỳ này vẫn ở mức khá cao: 41%. Với con số tăng trưởng này, có thể nói, các doanh nghiệp niêm yết đã có kết quả kinh doanh rất tốt trong quý 2 năm nay.

CƠ CẤU CHI PHÍ

Ở khía cạnh cơ cấu chi phí, 581 công ty niêm yết kỳ này có tổng giá vốn hàng bán trong kỳ đạt 201,000 tỷ đồng, tăng 7% so với cùng kỳ quý 2 năm trước, thấp hơn mức tăng 9% của tổng doanh thu trong kỳ. GAS vẫn là công ty có giá vốn lớn nhất: 12,000 tỷ đồng, giảm 15% so với cùng kỳ năm trước.

Chi phí bán hàng chung của các công ty niêm yết kỳ này đạt mức 10,500 tỷ đồng, tăng khá cao so với mức 9,100 tỷ đồng của năm trước. Ba công ty có mức tăng chi phí bán hàng đáng kể là FPT, MSN và VNM với mức tăng trung bình lên đến 45%.

Trong khi chi phí bán hàng tăng đáng kể thì chi phí quản lý doanh nghiệp của các công ty trong kỳ này lại chỉ tăng 3%, từ mức 8,700 tỷ của quý 2/2014, chi phí quản lý doanh nghiệp quý 2/2015 đạt gần 9,000 tỷ đồng, chỉ tăng 3%. FPT và BVH là hai công ty có chi phí quản lý lớn nhất, tổng chi phí quản lý của riêng hai công ty này lên đến 1,000 tỷ đồng, chiếm hơn 11% tổng chi phí quản lý chung của 581 công ty niêm yết, cũng chính hai công ty này là nguyên nhân chủ yếu làm chi phí quản lý chung giảm tốc: So với cùng kỳ năm trước, FPT và BVH có chi phí quản lý doanh nghiệp kỳ này giảm gần 18%.

Chi phí quản lý tăng chậm làm chi phí vận hành chung (SG&A cost) của các công ty kỳ này chỉ tăng 9.5%, không cao hơn bao nhiêu so với tốc độ tăng của doanh thu chung.

Chi phí tài chính chung của các công ty niêm yết trong quý 2 năm nay giảm nhẹ 0.6% so với cùng kỳ quý 2 năm trước.

THỐNG LÊ SỐ LƯỢNG CÔNG TY LÃI/LỖ

Quý 2 năm nay, trong tổng số 581 công ty niêm yết được thống kê, có 506 công ty kinh doanh có lãi, chiếm 87%. Dù số lượng công ty kinh doanh có lãi chỉ tăng 1%, nhưng số lãi bình quân lại đạt mức 45 tỷ đồng/công ty, tăng mạnh gần 70% so với cùng kỳ năm trước.

 

Ở chiều ngược lại, trong quý 2 năm nay, số lượng công ty thua lỗ là 75 công ty, dù chỉ giảm 4% so với cùng kỳ năm trước, nhưng tổng mức lỗ và mức thua lỗ bình quân lại giảm mạnh so với cùng kỳ quý 2/2014: Tổng mức lỗ kỳ này đạt 840 tỷ, giảm 26%; mức lỗ bình quân chỉ còn 11 tỷ/công ty, giảm 23% so với con số lỗ bình quân 14 tỷ của quý năm trước.

Như vậy, qua thống kê số lượng và mức thua lỗ/lời lãi của các công ty niêm yết kỳ nãy cũng đã phản ánh một tình hình kinh doanh tích cực hơn so với cùng kỳ năm trước 

Nếu như quý 1/2015, ngành thép vẫn duy trì được ví trí số 1 về quy mô doanh thu, thì đến quý 2 năm nay, tốc độ tăng trưởng doanh thu lên đến 20% đã giúp ngành thực phẩm vươn lên vị trí số 1. Với tốc độ tăng trưởng doanh thu chỉ ở mức 3%, ngành thép tụt lại vị trí số 2. Ngành xây dựng kỳ này nhờ doanh thu của CTD và PVX tăng ở mức khá cao đã giúp ngành tăng trưởng 19% so với cùng kỳ quý 2 năm trước.

 

Về lợi nhuận sau thế, với đóng góp rất lớn của KDC và VNM, nhóm ngành thực phẩm vươn lên vị trí số 1 về quy mô lợi nhuận với tổng mức gần 7,900 tỷ đồng, tăng gần gấp 5 lần so với cùng kỳ quý 2 năm trước. Với con số tăng trưởng ấn tượng này, quy mô lợi nhuận của ngành thực phẩm đã bỏ xa quy mô lợi nhuận của ngành phân phối xăng dầu & khí đốt vốn chiếm giữ vị trí số 1 bấy lâu nay bởi sự đóng góp của GAS.

 

Thống kê 10 ngành có tổng lợi nhuận sau thuế tăng trưởng cao nhất trong quý 2 năm nay cho thấy: Cũng như quý 1 vừa qua, ngành ô tô vẫn chiếm giữ vị trí số 1 về tốc độ tăng trưởng lợi nhuận: Dù ngành này chỉ có 6 công ty: HHS, TMT, HTL, SVC, HAX, CMC nhưng lợi nhuận sau thuế quý 2 năm nay đạt gần 350 tỷ đồng, tăng gấp 8.5 lần so với quý 2/2014.

Với tốc độ tăng trưởng lần lượt ở mức 356% và 74% của CII và CTD, ngành xây dựng nói chung đã có được mức tăng trưởng lợi nhuận sau thuế ở mức 460% so với quý 2/2014.

Ngành sản xuất và phân phối điện kỳ này cũng góp mặt trong top 5 ngành có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao nhất. Nguyên nhân chủ yếu đến từ PPC và NT2. Trong số 16 công ty cùng ngành thì riêng PPC và NT2 đã có lợi nhuận sau thuế đạt 440 tỷ đồng, chiếm 52% tổng lợi nhuận sau thuế của cả ngành và tăng trưởng gần 3,000% so với cùng kỳ năm trước.

 

Nguồn: VFS Research

Tags: ,

Economics

Thống kê kết quả kinh doanh quý 1/2015, bản đầy đủ

by finandlife22/05/2015 13:36

Kết quả sản xuất kinh doanh chung trong quý 1 năm nay của các doanh nghiệp niêm yết phản ánh khá rõ ảnh hưởng từ việc giá dầu thế giới giảm mạnh trong thời gian qua.

Tổng doanh thu của 540 công ty niêm yết đạt 193,200 tỷ đồng, tăng trưởng 7.7% so với cùng kỳ quý 1/2014. Tổng lợi nhuận sau thuế của các công ty này chỉ đạt 13,150 tỷ đồng, giảm 0.7% so với cùng kỳ quý 1/2014. GAS – công ty có doanh thu lớn nhất trong 540 công ty trên, nhưng quý này doanh thu của GAS chỉ đạt 15,500 tỷ đồng, giảm 18% so với cùng kỳ. PVD, VIC và HPG cũng có mức sụt giảm doanh thu lần lượt 19%, 60% và 25% so với cùng kỳ. Ngược lại, FPT, VNM và MWG lại có doanh thu tăng trưởng khá tốt: 17%, 12% và 39% so với cùng kỳ quý 1/2014. Nguyên nhân chính làm lợi nhuận của các công ty giảm nhẹ chủ yếu đến từ GAS và HPG khi 2 công ty nằm trong top 3 doanh nghiệp lợi nhuận lớn nhất này có lợi nhuận sau thuế giảm lần lượt 3% và 10% so với cùng kỳ.

Trong số 540 công ty công bố kết quả kinh doanh quý 1/2015, có 226 công ty có doanh thu giảm và 314 công ty có doanh thu tăng so với cùng kỳ; 254 công ty có lợi nhuận giảm và 286 công ty có lợi nhuận tăng trưởng so với cùng kỳ.

 

Chỉ riêng GAS đã chiếm đến hơn 8% doanh thu và gần 20% tổng lợi nhuận của 540 công ty. Vì vậy, sự ảnh hưởng của GAS lên kết quả chung là rất đáng kể. Chúng tôi xin lưu ý: nếu loại GAS ra khỏi danh sách thống kê, kết quả kinh doanh của các công ty trong kỳ này sẽ rất khác: Doanh thu tăng 9% và lợi nhuận tăn 5% so với cùng kỳ quý 1/2014. 

Cơ cấu chi phí:

Ở khía cạnh cơ cấu chi phí, trong khi doanh thu chỉ tăng 7.7%, lãi gộp chỉ tăng 5.4% nhưng các chi phí khác như chi phí tài chính, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp đều có các mức tăng cao hơn đáng kể doanh thu, điều này đã làm lợi nhuận sau thuế của các công ty giảm nhẹ so với cùng kỳ.

Chi phí tài chính của 540 công ty quý này đạt mức 5,800 tỷ đồng, tăng gần 30% so với cùng kỳ và chiếm tỷ lệ 3% tổng doanh thu, cao hơn so với mức 2.5% của cùng kỳ. VIC là công ty có chi phí tài chính cao nhất: 773 tỷ đồng, tăng 37% so với cùng kỳ quý 1/2014.

Chi phí bán hàng của các công ty trong quý này đạt 8,400 tỷ đồng, tăng 19% so với cùng kỳ. Tỷ trọng của chi phí bán hàng trong tổng doanh thu cũng tăng từ 3.9% ở quý trước lên mức 4.3% trong quý này. VNM, FPT và MWG vẫn là 3 công ty có chi phí bán hàng lớn nhất với tổng chi phí bán hàng đạt 2,130 tỷ đồng, tăng gần 50% so với cùng kỳ quý 1/2014.

Chi phí quản lý doanh nghiệp kỳ này đạt 7,400 tỷ, tăng 9% so với cùng kỳ quý 1/2014 và giữ nguyên tỷ trọng 3.8% tổng doanh thu bán hàng của các công ty.

Quý 1/2015, trong số 540 doanh nghiệp niêm yết, có 469 công bố kết quả kinh doanh có lãi và 71 doanh nghiệp thua lỗ. Như vậy, sau 1 năm, số doanh nghiệp có lãi tăng lên và số doanh nghiệp thua lỗ giảm xuống (dù không nhiều). Ba doanh nghiệp thua lỗ nhiều nhất trong quý này là: BTP, VOS và NHS với mức lỗ lần lượt -123, -104 và -45 tỷ đồng.

 

Quý 1/2015, mặc dù số doanh nghiệp thua lỗ giảm xuống so với cùng kỳ, nhưng tổng mức lỗ lại tăng lên đáng kể. Trong khi đó, số doanh nghiệp có lãi tăng lên, nhưng tổng mức lãi lại giảm nhẹ so với cùng kỳ. 

Tăng trưởng lợi nhuận theo nhóm ngành

Phân tích chi tiết cho thấy, kết quả kinh doanh có sự phân hoá rõ nét theo nhóm ngành:

Quý 1 năm nay, ngành ô-tô dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng doanh thu với tổng doanh thu toàn ngành đạt 3,800 tỷ đồng, tăng 64% so với cùng kỳ. 3 ngành có tốc độ tăng trưởng doanh thu cao tiếp theo là ngành bất động sản, xây dựng và kho bãi. Ngành chứng khoán, vận tải và thủy sản là 3 ngành có sự sụt giảm về doanh thu nhiều nhất, lần lượt giảm 25%, 24% và 21% so với cùng kỳ quý 1/2014

Về lợi nhuận, ngành xây dựng dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng. Quý 1 năm nay, ngành xây dựng có tổng lợi nhuận đạt gần 400 tỷ đồng, tăng trưởng 980% so với cùng kỳ. Các ngành sản xuất ô-tô, vật liệu xây dựng và dệt may là 3 ngành có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao tiếp theo, lợi nhuận sau thuế của 3 ngành này tăng lần lượt 501%, 264% và 49% so với cùng kỳ quý 1/2014.  Ngành vận tải, chứng khoán và ngành điện là 3 ngành có tốc độ suy giảm lợi nhuận nhiều nhất trong quý 1 năm nay vớ lợi nhuận sau thuế giảm lần lượt: 190%, 62% và 47% so với cùng kỳ quý 1/2014.

 

Tổng tài sản tăng 10%

Tại thời điểm 31/3/2015. 540 doanh nghiệp niêm yết công bố báo cáo tài chính với tổng tài sản vượt 1 triệu tỷ đồng, tăng 10% so với cùng ký quý 1 năm 2014. 

Nguồn vốn chủ sở hữu tăng 14%

Vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp này đạt mức 434,000 tỷ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ. Với mức vốn chủ sở hữu ở mức trên, các doanh nghiệp niêm yết hiện đang có tỷ lệ vốn chủ sở hữu chiếm 43% tổng tài sản.

Vay nợ tăng 12%

Tổng vay nợ (cả vay nợ ngắn hạn và dài hạn) đạt mức gần 300,000 tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ quý 1 năm 2014.

 

Nguồn: Analyst Nguyễn Văn Tiến, VFS Research

Tags: ,

Economics

DISCLAIMER

I am currently serving as an Investment Manager at Vietcap Securities JSC, leveraging 16 years of experience in investment analysis. My journey began as a junior analyst at a fund in 2007, allowing me to cultivate a profound understanding of Vietnam's macroeconomics, conduct meticulous equity research, and actively pursue lucrative investment opportunities. Furthermore, I hold the position of Head of Derivatives, equipped with extensive knowledge and expertise in derivatives, ETFs, and CWs.

 

To document my insights and share personal perspectives, I maintain a private blog where I store valuable information. However, it is essential to acknowledge that the content provided on my blog is solely based on my own opinions and does not carry a guarantee of certainty. Consequently, I cannot assume responsibility for any trading or investing activities carried out based on the information shared. Nonetheless, I wholeheartedly welcome any questions or inquiries you may have. You can contact me via email at thuong.huynhngoc@gmail.com.

 

Thank you for your understanding, and I eagerly anticipate engaging with you on topics concerning investments and finance.

Designed by: Nguyễn Chí Hiếu