Tôi sẽ chọn thị trường mới nổi, còn bạn?|Phần 2

by finandlife19/06/2014 10:31

Sự phân hóa giữa các ngành trong thị trường mới nổi

Cũng như sự phân hóa giàu nghèo ở thị trường mới nổi, không phải tất cả lĩnh vực ở thị trường này đều ở tình trạng suy giảm. Đơn cử ngành nghề liên quan đến tiêu dùng và công nghệ vẫn đang hoạt động rất tốt.

Câu chuyện kích thích phổ biến nhất ở những thị trường mới nổi là thị trường tiêu dùng đã tăng trưởng nhanh chóng nhờ sự tăng lên của thu nhập và sự giàu có. Những cổ phiếu liên quan đến tiêu dùng thuộc top tăng trưởng trong 3 năm qua, chúng tăng đến 26%, cao hơn 33% so với mức tăng chung của thị trường. Kỳ vọng lớn của nhà đầu tư được phản ánh vào mức định giá cao ngất ngưỡng (sky-high valuations). Ngành tiêu dùng đang giao dịch ở mức P/E 27x và P/B 3.6x, hơn gấp 2 lần so với thị trường. Trớ trêu thay, những nhà đầu tư đang lo ngại tình trạng tăng trưởng chậm lại ở Trung Quốc và những thị trường mới nổi khác đang phải trả một mức giá cao cho những công ty, mà thu nhập của nó có thể có thể đang ở mức rủi ro cao nhất.

Lĩnh vực công nghệ cũng được ảnh hưởng bởi kỳ vọng tăng trưởng trong tiêu dùng, đã tăng trưởng nhanh chóng. Được dẫn dắt bởi những công ty internet tăng trưởng như bay, cổ phiếu công nghệ dẫn đầu mức tăng giá tại thị trường mới nổi, tăng gần 40% trong 3 năm qua. Và mức định giá của một vài công ty trong đó đã vượt xa so với sổ sánh rất nhiều. Chỉ số P/E lên đến 90x, 50x; P/B lên đến 14x, 21x.

Ở khía cạnh ngược lại, những công ty năng lượng lại có mức suy giảm mạnh nhất ở thị trường mới nổi. Mức suy giảm lên đến 33%; trái ngược so với những công ty năng lượng ở Mỹ (Tăng trưởng 18% trong 3 năm qua).

Rõ ràng, một số lĩnh vực của thị trường mới nổi đã được dẫn dắt bởi lợi nhuận, dẫn đến một vài lĩnh vực trở nên hấp dẫn hơn một vài ngành khác. Những cổ phiếu tiêu dùng và công nghệ dường như đang bị định giá quá cao trong khi đó những cổ phiếu năng lượng lại đang có mức giá hợp lý và mang lại cơ hội đầu tư với tỷ suất sinh lợi tiềm năng cao.

A Word about Emerging Market Country Exposures

“Cái gì vậy?” bạn hỏi. Tất nhiên thị trường Brazil và Nga đang rẻ, nhưng chúng có đầy vấn đề. Đó chính là vấn đề! Những nhà đầu tư sợ hãi giá trị cổ phiếu thị trường mới nổi hôm nay, và cảm xúc này đẩy giá trị một ngành nghề cụ thể về mức hấp dẫn. Dữ liệu cho thấy đầu tư giá trị đang hiện diện ở đây, khoản đầu tư có giá trị trong dài hạn thường cảm giác không dễ chịu tại thời điểm quyết định mua chúng. Hãy để tôi chỉ ra một vài điểm dễ chịu ở đây nhé!

Một nghiên cứu cho thấy đầu tư vào những doanh nghiệp, quốc gia có suất sinh lợi cổ tức cao và đồng tiền yếu có tỷ suất sinh lời cao hơn.

Lời kết 

Chứng khoán thị trường mới nổi đã trải qua đau khổ từ sự bi quan quá mức. Họ đã đạt đến đỉnh điểm của bi quan chưa, Ông John Templetion nói? Chúng ta không thể biết chắc. Nhưng có vẻ chắc chắn không ai giống họ, quốc gia dính chặc trong những chiến thuật chính trị thái quá, dòng tiền đang chảy ra, và đồng tiền yếu. Đạo đức trong tình yêu vô điều kiện với con chó lớn Clifford, thậm chí trong thời điểm khó khăn. Ngày hôm nay, những nhà đầu tư tìm kiếm mọi sai sót của thị trường mới nổi, chỉ như Emily Elizabeth quan sát Clifford. Nhưng cô ấy chọn Clifford. Có lẽ chúng ta có thể học được bài học từ cô ấy và chọn cách kiên nhẫn trong đầu tư giá trị dài hạn vào thị trường mới nổi.

Phần 1

Nguồn: finandlife

Tags:

Economics

ECB hạ lãi suất tiền gửi về mức âm 0.1%

by finandlife06/06/2014 08:54

Source: European Central Bank

Less Than Zero

When Interest Rates Go Negative

Imagine a bank that pays negative interest. Depositors are actually charged to keep their money in an account. Crazy as it sounds, the European Central Bank has cut a key interest rate below zero, the first major central bank to venture into negative territory. It’s one way to try to reinvigorate (/in·vig·o·rate/ if something invigorates you, it makes you feel healthier, stronger and have more energy)an economy with other options exhausted. It’s an un’orthodox (/un·or·tho·dox/ unorthodox opinions or methods are different from what is usual or accepted by most people) choice that the U.S. Federal Reserve and other peers have so far rejected.

Cảm giác khùng điên khi Ngân hàng Trung ương Châu Âu cắt giảm lãi suất chủ chốt xuống mức dưới 0. Đây là động thái ngược đời nhằm giúp nền kinh tế khỏe mạnh hơn.

ECB officials say more stimulus is needed to prevent a slide into deflation, or a spiral (a line in the form of a curve that winds around a central point, moving further away from the centre all the time) of falling prices that could de’rail (làm chệch hướng)the recovery. The bank cut its deposit rate to minus 0.1 percent from zero and reduced its benchmark interest rate to a record-low 0.15 percent. A negative deposit rate helps the economy by pushing the euro lower. There’s also sluggish demand for loans in the euro zone, where unemployment is stuck near its highest level since the currency bloc was formed in 1999. The bank’s president, Mario Draghi, has been floating the idea of charging lenders to park their excess reserves at the ECB for almost two years. Cutting the deposit rate below zero effectively punishes banks that have extra cash but are reluctant to extend credit to weaker lenders. The ECB has particular reason to use negative interest rates. The Fed and the Bank of Japan have turned to large-scale asset purchases, known as quantitative easing, that create new money to fuel the recovery. European Union rules make it politically difficult for the ECB to buy large volumes of government bonds, though it is offering more liquidity to banks and will start work on plans to purchase asset-backed securities.

Việc làm này nhằm giúp nền kinh tế không rơi vào trạng thái giảm phát, tình trạng có thể làm chệch hướng phục hồi kinh tế. Lãi suất tiền gửi đã về mức âm 0.1% và lãi suất tham chiếu về mức thấp kỷ lục (0.15%). Có những lý do đặc biệt để thực thi chính sách này. Việc FED và Ngân hàng Nhật Bản liên tục mua vào tải sản với khối lượng lớn, chính sách được biết đến như là QE, đã giúp tạo tiền mới để tài trợ sự phục hồi kinh tế. Trong khi đó, Khối Châu Âu lại có những quy định khó làm việc đó, do vậy ngân hàng ECB chỉ còn cách tạo thanh khoản cao cho các ngân hàng.

The Background

With interest rates at all of the world’s major central banks effectively at bottom, officials are looking again at what’s sometimes called the sacred “lower bound” of their main monetary policy tool. Negative deposit rates have been used by a handful of smaller central banks in recent years, including Sweden’s, which conducted a 14-month experiment in 2009-2010. Denmark moved below zero in July 2012 — though the cut was aimed more at protecting its currency than stimulating growth — and ended the policy in April. There is no guarantee that negative rates will be able to revive (hồi sinh)an entire economy or work in one as large as the euro area. During the height of Europe’s sovereign debt crisis almost two years ago, Draghi pledged to do “whatever it takes” to save the area’s common currency, signaling the ECB’s willingness to experiment with monetary policy.

Đây chỉ là giải pháp ngắn hạn, và không lấy gì làm đảm bảo sẽ giúp hồi sinh toàn bộ nền kinh tế. Trong lịch sử, đã có một số quốc gia từng sử dụng chính sách này như Thụy Điển năm 2009-2010; Đan Mạnh năm 2012

The Argument

In theory, an interest rate below zero should lower all market rates, thus also reducing borrowing costs for companies and households. In practice, though, there’s a risk that the policy might do more harm than good. Janet Yellen, the Fed chair, said at her confirmation hearing Nov. 14 that the closer the deposit rate is to zero, the bigger the risk of disruption (/dis·rup·tion/ a situation in which something is prevented from continuing in its usual way) to the money markets that help fund banks. (The Fed pays 0.25 percent on excess reserves.)  In Denmark, commercial banks didn’t pass on the negative rates to depositors for fear of losing customers.  When banks absorb the costs themselves, it squeezes the profit margin between their lending and deposit rates, and might make them even less willing to lend.

Về lý thuyết, lãi suất bé hơn không có thể giúp giảm chi phí đi vay cho doanh nghiệp và cho người mua nhà. Trong thực tế, có một rủi ro mà chính sách có thể gây hại hơn là tốt, đó là có thể dòng tiền dành cho ngân hàng sẽ bị gián đoạn.

 

Nguồn: finandlife dịch|Jana Randow, Bloomberg

Tags: ,

Economics

Dự báo kết quả Review ETFs Quý 2 năm 2014

by finandlife03/06/2014 08:36

Quỹ Market Vector Vietnam ETFS - VNM

Kết quả sàng lọc và dự đoán của VFS:

Sử dụng dữ liệu giá đóng cửa, %Room nước ngoài còn lại ngày 30/05/2014, kết quả sàng lọc của chúng tôi như sau:

-          Mã vi phạm (loại ra): Không có

-          Mã đủ điều kiện thêm vào: Không có (IJC thiếu điều kiện thanh khoản kì T8 – T11/2013, mặc dù tương tự như trường hợp của MSN & PVT kì trước vẫn được quỹ thêm vào danh mục, tuy nhiên kì trước danh mục của quỹ chỉ có 24 mã nên quỹ bắt buộc phải thêm vào cho đủ 25 mã. Kì này danh mục có 26 mã do đó khả năng IJC được thêm vào kì này là không cao)

Các kịch bản có khả năng xảy ra:

-          Kịch bản 1: Không thêm không loại mã nào (xác suất cao).

-          Kịch bản 2: Thêm IJC (xác suất thấp).

Bên cạnh đó, trong kì có sự kiện STB nới room cho nhà đầu tư nước ngoài từ 10% à 30%. Nhiều khả năng quỹ sẽ điều chỉnh tỷ lệ có thể đầu tư của STB trong kì này, điều này sẽ dẫn tới nhiều xáo trộn trong tỷ trọng của các mã. 

Lịch cơ cấu lại Quý 2/2014:

-          Ngày chốt số liệu sàng lọc: 30/05/2014

-          Ngày công bố danh mục mới: 13/06/2014

-          Ngày danh mục mới có hiệu lực: 20/06/2014.

  

*Lưu ý: Ngày 11/06/2014 mới là ngày chốt dữ liệu giá, %room nước ngoài, %Free float để rebalancing danh mục. Do đó bảng tính trên chưa loại bỏ biến động của những dữ liệu này từ nay đến ngày 11/06/2014. Khối lượng mua (bán) dự kiến có thể sẽ có nhiều thay đổi so với bảng tính trên.

 

Quỹ DB FTSE Vietnam Index - FTSE

Kết quả sàng lọc và dự đoán của VFS:

Sử dụng dữ liệu giá đóng cửa, %Room nước ngoài còn lại ngày 30/05/2014, kết quả sàng lọc của chúng tôi như sau:

-          Mã vi phạm (có thể bị loại): PET (Vi phạm điều kiện vốn hoá nằm ngoài độ bao phủ 92% vốn hoá đầy đủ toàn thị trường).

-          Mã có khả năng thêm vào: HVG.

Bên cạnh đó, tương tự quỹ VNM, nhiều khả năng FTSE cũng sẽ điều chỉnh investable weight của STB từ 15% lên 30% trong kì cơ cấu này (dữ liệu lịch sử của chúng tôi cho thấy investable weight của STB từng bị hạ từ 30% xuống 15% trong kì review tháng 6/2012 khi phát sinh sự kiện STB hạn chế room cho nhà đầu tư nước ngoài từ 30% xuống còn 15% trong kì review đó.

Lịch cơ cấu lại Quý 2/2014:

-          Ngày chốt số liệu sàng lọc: 30/05/2014

-          Ngày công bố danh mục mới: 06/06/2014

-          Ngày danh mục mới có hiệu lực: 20/06/2014.

  

*Tỷ trọng hiện tại của các cổ phiếu trong rổ tính đến hết ngày 27/05/2014 

Nguồn: finandlife|VFS Research

Tags: ,

Economics | Stocks

VEPR|Viễn cảnh kinh tế 2014 “những ràng buộc đối với tăng trưởng”

by finandlife01/06/2014 09:20

Bên cạnh những giải pháp ngay lập tức như điều chỉnh tỷ giá; xúc tiến đối tác chiến lược như Nhật, Hàn, Asian, hạn chế Trung Quốc… vẫn còn nhiều chuyện phải làm mang tính chiến lược như cải thiện năng suất lao động, tạo cơ chế khuyến khích sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp.

Dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2014 sau những căng thẳng trên biển đông chỉ còn 4.88%, thấp hơn mục tiêu 5.8%.

-------------------------

Bên cạnh những chính sách trong trung hạn mang tính tổng hợp các quan điểm chính sách được đề xuất trong các chương chuyên đề của Báo cáo, Chương 7 cung cấp hai kịch bản dự báo về viễn cảnh kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong năm 2014 và một số thảo luận chi tiết về các chính sách ngắn hạn đang được áp dụng hiện nay. Cũng tương tự như năm 2013, năm 2014 tiếp tục có thêm dự địa chính sách nhờ lạm phát tương đối thấp, nhưng các vấn đề của nền kinh tế thực vẫn là điều đáng lo ngại nhất. Doanh nghiệp tiếp tục suy yếu, các giải pháp chính sách không đủ mạnh và môi trường truyền dẫn chính sách kém hiệu quả, làm biến dạng mục tiêu mong muốn, đều là những nhân tố cản trở sự phục hồi kinh tế. Đặc biệt trong năm 2014 xuất hiện mâu thuẫn giữa Việt Nam và Trung Quốc trên biển Đông, đe dọa quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước. Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nền kinh tế Trung Quốc với tư cách nước nhập khẩu ròng về nguyên vật liệu, thiết bị xây dưng, máy móc và dịch vụ xây dựng nhiều công trình năng lượng và hạ tầng, đồng thời là nhà xuất khẩu ròng nhiều mặt hàng nông nghiệp quan trọng như cao su, gạo, hoa quả… nên quan hệ xấu đi giữa hai nước sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam. Hai kịch bản dự báo được xây dựng cho thấy tăng trưởng của năm 2014 có nhiều khả năng sụt giảm so với năm 2013 thì chịu ảnh hưởng trong mối quan hệ kinh tế-chính trị với Trung Quốc. Kịch bản thấp dự báo mức tăng trưởng GDP đạt khoảng 4,15%, trong khi kịch bản cao hơn cũng chỉ đạt mức là 4,88% (theo giá cố định năm 2010). Lạm phát của cả năm 2014 được dự báo tiếp tục hạ thấp hơn so với năm trước, tương đối ổn định, trong vùng dự kiến từ 4,76% đến 5,51%.

Một loạt vấn đề ngắn và trung hạn được đặt ra cho Việt Nam, bao gồm lựa chọn ưu tiên giữa chính sách giữa phục hồi tăng trưởng, hồi sinh doanh nghiệp và chính sách tiền tệ thích hợp, kiểm soát ổn định vĩ mô. Trong đó ổn định vĩ mô vẫn là tiền đề vững chắc cho các chính sách căn bản khác.

Do kỳ vọng lạm phát có thể thấp dưới 6%, cùng với sự dư thừa thanh khoản trong ngân hàng, nên sức ép hạ lãi suất huy động vẫn còn mạnh, nhưng cần chú ý để không gây xáo trộn trên thị trường vốn nếu lãi suất huy động thực tiến sang trạng thái âm. Đối với thị trường bất động sản, không nên kéo dài thời gian điều chỉnh bằng những gói hỗ trợ hoặc các giải pháp trên giấy, tạo kỳ vọng sai lạc về thị trường này. Cách tốt nhất là để thị trường tiếp tục tự điều chỉnh (xuống giá).

Định hướng của chính sách tỷ giá, không chỉ là điều chỉnh ngắn hạn trong nửa cuối năm (tăng khoảng 2-3%) mà là một tầm nhìn ổn định trong tương lai nhằm tác động tích cực đến sản xuất trong nước. Sau giai đoạn căng thẳng trên biển với Trung Quốc, nên có sự điều chỉnh tỷ giá vì điều kiện vĩ mô thuận lợi như hiện nay không có nhiều. Trên phương diện giải quyết nợ xấu, cần tiến thêm một bước cụ thể là tạo dựng thị trường mua bán nợ và cơ chế khơi thông nguồn lực mua nợ từ nhà đầu tư trong nước và quốc tế; Về cải cách doanh nghiệp nhà nước, cần duy trì tiến trình cổ phần hóa DNNN như Thông điệp đầu năm của Thủ tướng để vừa cải thiện ngân sách, vừa thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế; Bên cạnh những thuận lợi từ xuất khẩu, giới hoạch định chính sách cần xác định những nguy cơ về quỹ đạo phát triển khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào các liên kết quốc tế có mức độ tư do cao (ACFTA, TPP, các FTAs khác). Trong đó, cải cách thể chế và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh là chìa khóa để hội nhập thành công.

Trước sự bành trướng rất nhanh của chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách, Việt Nam cần có một lộ trình tinh giản biên chế cả ở cấp trung ương và địa phương nhằm kiểm soát quy mô của khoản chi này; Trong giai đoạn đứng trước thử thách khó khăn với Trung Quốc, Việt Nam càng cần thực hiện quyết tâm thay đổi mô hình kinh tế, con đường phát triển và thay đổi tư duy điều hành nền kinh tế. Giai đoạn kinh tế suy giảm vừa qua cho thấy nhiều bài học lớn, cùng với những tranh chấp với Trung Quốc hiện nay, nhu cầu cải cách, giảm phụ thuộc càng rõ ràng hơn.

Song song với quá trình này, cần xác định các đối tác kinh tế và chiến lược như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Ấn Độ và ASEAN để xây dựng cơ sở hợp tác dài hạn, giảm phụ thuộc vào Trung Quốc. Cần thúc đẩy tăng năng suất của nền kinh tế trong trung và dài hạn thông qua quyết tâm cải cách thể chế theo hướng thị trường để tạo động lực phân bổ nguồn lực hữu hiệu hơn; Chủ động định hướng thị trường lao động tái cơ cấu theo hướng nâng cao chất lượng, khuyến khích lao động kỹ năng cao.

Chúng ta cũng cần chú trọng phân bổ nguồn lực, tạo dựng cơ chế khơi thông đầu tư sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp. Đặc biệt với kinh tế biển, cần hỗ trợ trực tiếp (sửa chữa, nguyên liệu) để người dân bám biển. Bổ sung các tàu lớn của quốc gia để hỗ trợ về hậu cần cho các đội tàu cá.

------------------------------------------

Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2014: Cần căn cứ thực tế hơn là lý thuyết!

02/06/2014

(Thời báo Kinh Doanh) - Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2014, vừa được Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) công bố, nhận được nhiều phản biện từ các chuyên gia kinh tế: "Các nhà nghiên cứu cần gia tăng nhiệt huyết hơn. Đất nước đang cần độ "nóng". Trong khi đó, các nhà học thuật vẫn ngồi, thỉnh thoảng phẩy quạt lông đưa ra một vài câu chuẩn mực về nguyên lý là không ổn".

Liên tục những năm gần đây, tăng trưởng sụt giảm mạnh. Đã có rất nhiều nghiên cứu, phân tích nguyên nhân được đưa ra. Nhưng tại Báo cáo 2014, VEPR đã chỉ những ràng buộc đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Trong đó, những cản trở cho đầu tư dài hạn là bất ổn kinh tế vĩ mô, sự xói mòn niềm tin của các chủ thể kinh tế vào tương lai và định hướng điều hành.

Hai kịch bản chưa thuyết phục

Theo Ts. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc VEPR, mặc dù nền kinh tế đã có sự phục hồi nhưng vẫn rất mong manh, khả năng chống đỡ với các cú sốc khá yếu. Vì thế, trong Báo cáo kinh tế thường niên 2014 của VEPR đã đưa ra 2 kịch bản: Kịch bản thấp, dự báo tăng trưởng GDP đạt khoảng 4,15% và kịch bản cao là 4,88%. Lạm phát được dự báo sẽ thấp hơn năm 2013 và ở trong vùng dự kiến từ 4,76% đến 5,51%.

Những cản trở của tăng trưởng là môi trường kinh doanh thấp, quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm và tình trạng tham nhũng. Những cản trở dài hạn là hạ tầng, cả hạ tầng giao thông và hạ tầng năng lượng. Hiệu quả kém của các trung gian tài chính và đầu tư công quá mức sẽ trở thành ràng buộc chặt nếu nền kinh tế quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng cao hơn.

Bên cạnh đó là những ràng buộc khác như thừa lao động nhưng thiếu hụt nguồn nhân lực có đào tạo, có kỹ năng; khả năng đổi mới sáng tạo của nền kinh tế hầu như không có; thiếu môi trường khuyến khích tự do nghiên cứu và chấp nhận rủi ro…; thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện và thủ tục hành chính chưa hỗ trợ cho DN và tinh thần khởi nghiệp. Những ràng buộc nội bộ này cũng là rào cản tiềm tàng trong quá trình hội nhập của Việt Nam.

Những nhận định đưa ra trong Báo cáo của VEPR về "sức khỏe" nền kinh tế Việt Nam, Ts. Vũ Viết Ngoạn, Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, cho rằng đánh giá 2 kịch bản về tăng trưởng (tăng GDP năm 2014 mức thấp là 4,15%, cao là 4,88%) mà Báo cáo nêu chưa thuyết phục. Bởi vì Báo cáo không dẫn ra được các căn cứ cụ thể để chứng minh. "Tôi không bi quan về tăng trưởng như nhóm tác giả đã nêu trong báo cáo", Ts. Ngoạn nhấn mạnh.

Ts. Ngoạn đặc biệt lưu ý, báo cáo này có đánh giá nền kinh tế đang phục hồi, nhưng chưa chỉ ra được yếu tố nào tạo nên sự phục hồi đó do sự đúng đắn của chính sách hay do yếu tố ngoại sinh tác động vào nền kinh tế. Nhìn chung, đến thời điểm gần hết tháng 5, báo cáo này mới xuất hiện và đưa ra những gợi ý chính sách cho năm 2014 là quá chậm".

Còn theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, cần có những phân tích, đánh giá rõ nét hơn về khả năng ứng phó của nền kinh tế với các cú sốc để có những kịch bản hành động phù hợp nhằm giảm thiểu rủi ro nếu có những cú sốc xảy ra.

Thực tế có rất nhiều mô hình làm kinh tế rất hiệu quả

Ví dụ, tình trạng DN phá sản đang nghiêm trọng hơn. Nếu năm 2009 - 2010, DN phá sản là những DN làm ăn chụp giật thì 2 năm gần đây, trong số DN phải phá sản, ngừng hoạt động là những DN đã gồng mình chống đỡ suốt thời gian qua.

Hơn nữa, bên cạnh số DN ngừng hoạt động hay phá sản còn là những DN đã không thể cầm cự tiếp, phải chấp nhận bán và sáp nhập. Theo ông Doanh, cần tìm hiểu kỹ vấn đề này và ông cũng đặt câu hỏi: như vậy, bao nhiêu DN có tiềm năng của Việt Nam đã không tự sống được và đã rơi vào tay NĐT nước ngoài?

Cần có cách tiếp cận khác

Đánh giá và chất lượng báo cáo lần này của VEPR, Gs. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài, thẳng thắn: Các số liệu trong Báo cáo vẫn rơi vào tình trạng không có cái mới, những kiến nghị đưa ra vẫn chung chung. Báo cáo cần đề cập đến những chủ trương Nhà nước đã làm thì cái nào đúng, cái nào chưa đúng; những việc đặt ra thì đã triển khai vào thực tế được như thế nào, chẳng hạn về xử lý nợ xấu, tái cơ cấu kinh tế...

"Các nghiên cứu kinh tế vĩ mô như thế này, cần có cách tiếp cận khác. Đó phải là tiếp cận đi từ thực tế thay vì cứ xuất phát từ lý thuyết. Bởi thực tế có rất nhiều mô hình làm kinh tế rất hiệu quả. Rất cần có nghiên cứu áp dụng vào nền kinh tế để thoát khỏi khó khăn", ông Mại kiến nghị.

Ts. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cũng cho rằng những liệt kê về ràng buộc đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam như VEPR đưa ra chưa ổn. Đó không chỉ đơn thuần là những chi tiết xếp cạnh nhau trong nền kinh tế. Các ràng buộc này đã thành một hệ thống, giờ muốn đục chỗ nào để thoát ra cũng khó. Vì sao chúng ta cố đột phá mãi mà không được.

Ông Thiên phân tích: Đơn cử, nhìn vào chỉ số lạc quan của sản xuất công nghiệp là thấy cần phải tính lại cho kỹ. Bởi vì, báo cáo gần đây nhất của Bộ KH&ĐT, DN đóng cửa 5 tháng qua cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái tới 20%, trong khi đó, chỉ số công nghiệp vẫn tốt lên. Đây là vấn đề cực kỳ nghiêm trọng, cần nhìn nhận rõ ràng, sự tốt lên thực chất là của DN nào. Nếu nhìn vào điều này, phân tích kỹ ra, sẽ thấy có thêm ràng buộc.

Không nên nhìn chỉ số chung trong các báo cáo tốt lên mà bỏ qua những yếu tố thành phần đang có vấn đề. Ngay như sản xuất công nghiệp tốt lên thật, nhưng không phải nhờ ở DN nội mà do khối DN FDI. Xuất khẩu cũng vậy. Trong khi DN nội suy yếu mạnh thì FDI đang lớn lên và lớn theo cách không bình thường. Vậy, liệu có quyết liệt đổi mới để tháo gỡ được không. Tính khốc liệt của vấn đề là ở chỗ đó.

"Nếu cứ theo các báo cáo, lấy các chỉ số chung tốt lên sẽ dễ bị che đi sự thực trong cơ cấu kinh tế. Đây là vấn đề cực kỳ nguy hiểm, cần phải nhìn nhận nghiêm túc để tránh ảo tưởng khi đọc báo cáo", ông Thiên nói.

-------------------------------------------

Rạch ròi việc dự báo

Ts. Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

------------------------------------

Cần rạch ròi việc dự báo. Một mặt khẳng định sự phục hồi kinh tế từ giữa năm 2013 có vẻ mong manh nhưng mặt khác, dự báo lại cho kết quả, tăng trưởng vẫn tiếp tục thụt lùi. Vậy thì đà phục hồi ở đây là như thế nào? Ngay cả mức dự báo 5,5% của các tổ chức quốc tế cũng là một mức tăng trưởng yếu ớt. Trước ta chưa có cú sốc ở bên ngoài. Giờ, nếu có cú sốc từ bên ngoài thì sẽ tác động bao nhiêu phần trăm đến nền kinh tế Việt Nam. Đây là điều cần phải được tính toán, nghiên cứu sâu hơn trong báo cáo kinh tế.

Sức chịu đựng của nền kinh tế đến đâu

Ts. Vũ Viết Ngoạn, Chủ tịch Uỷ ban giám sát tài chính quốc gia

------------------------------------

Câu hỏi mở ra trong đầu tôi là đánh giá sức chịu đựng của nền kinh tế đến đâu.

Có hai câu hỏi đặt ra trong bối cảnh hiện nay, thứ nhất là mức tăng trưởng tối thiểu cần thiết cho Việt Nam để giải quyết công ăn việc làm là bao nhiêu? Thứ hai là trong 2-3 năm tới, liệu Việt Nam có vượt qua bẫy thu nhập trung bình hay không hay vẫn cứ tăng trưởng thấp như hiện nay.

Hiện nay, năng suất lao động thấp, chỉ 2% chưa đủ bù đắp cho cắt giảm đầu tư và suy giảm kinh tế. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu, không bù đắp được sụt giảm vừa qua, dẫn đến thất nghiệp do không giải quyết được việc làm. Kèm theo đó, giảm tiêu dùng..., dẫn đến bất ổn xã hội, suy giảm niềm tin, càng dẫn đến tăng trưởng thấp.

Mong muốn chỉ ra những ràng buộc trong nhiều lĩnh vực

Ts. Nguyễn Đức Thành - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội)

------------------------------------

Báo cáo thường niên năm nay mong muốn chỉ ra những ràng buộc trong nhiều lĩnh vực đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Để tháo gỡ những ràng buộc này, đòi hỏi Việt Nam phải có quyết tâm mạnh mẽ trong việc tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, và trên hết, hình dung rõ ràng một mô hình kinh tế - xã hội tổng thể cho tương lai Việt Nam.

 

Việt Nguyễn|Thoibaokinhdoanh.vn

Nguồn: finandlife|Trích Báo Cáo Thường Niên 2014 “Những ràng buộc đối với tăng trưởng”

Tags: ,

Economics

Thống kê kết quả kinh doanh quý 1 năm 2014

by finandlife26/05/2014 09:33

Kết quả sản xuất kinh doanh quý 1 của các doanh nghiệp niêm yết cho thấy một bức tranh với nét vẽ mới từ chi phí bán hàng. Khoản mục chi phí này đã tăng gần 16% so với cùng kỳ, nhanh hơn khá nhiều so với tốc độ tăng trưởng 12.5% của doanh số làm lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ còn tăng trưởng 6.2%.

Ngoài ra, việc thiếu vắng những khoản lợi nhuận khác và lợi nhuận từ hoạt động tài chính đã góp phần làm lợi nhuận sau thuế quý 1 giảm 4.2% so với cùng kỳ.

Điểm đáng ghi nhận là tốc độ tăng trưởng doanh thu ở mức khá cao, cho thấy nhu cầu thị trường và đầu ra đang dần cải thiện. Thêm vào đó, chi phí đầu vàokhông có nhiều đột biến đã giúp lợi nhuận gộp tăng trưởng tương đồng với tốc độ tăng trưởng doanh thu thuần.

Chúng tôi cho rằng, trong những quý tới khi nhu cầu tiếp tục cải thiện, những khoản đầu tư mạnh cho công tác bán hàng vào đầu năm sẽ giúp các doanh nghiệp tăng doanh thu và cải thiện lợi nhuận.

--------------------------------------

Tổng doanh thu thuần và lãi gộp của 615 doanh nghiệp niêm yết (không bao gồm ngân hàng) Quý 1/2014 tăng 12.5% so với cùng kỳ. Trong khi đó tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh chỉ tăng 6.2%, tổng lợi nhuận sau thuế giảm 4.2%.

So sánh với quý 4/2013, trong khi tốc độ tăng trưởng doanh thu của các doanh nghiệp niêm yết Quý 1/2014 so với cùng kỳ cao hơn nhưng tăng trưởng lợi nhuận lại giảm đi đáng kể.

 

Quý 1/2014, tổng doanh thu thuần và giá vốn hàng bán của các doanh nghiệp trong mẫu tăng 12.5% giúp lãi gộp tăng với tốc độ tương ứng. Lãi vay giảm giúp chi phí tài chính giảm 7.6% so với cùng kỳ (chi phí lãi vay giảm 12.6%). Chi phí quản lý cũng được kiểm soát khá tốt khi chỉ tăng 9.1%, thấp hơn tốc độ tăng của doanh thu và lãi gộp.

Mặc dù vậy với việc chi phí bán hàng tăng đến 15.9%, thu nhập tài chính giảm đến 28.2%, tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh của 615 doanh nghiệp trong mẫu chỉ tăng 6.1% so với cùng kỳ.

Bên cạnh đó, với việc không còn những khoản lợi nhuận khác lớn như Quý 1/2013 (tiêu biểu trường hợp của GAS), lợi nhuận khác ròng Quý 1/2014 đã giảm 72.7%, góp phần làm lợi nhuận trước thuế giảm 0.9%, lợi nhuận sau thuế giảm 4.2% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều so với kết quả đạt được trong Quý 4 và cả năm 2013.

Phân tích chi tiết chi phí bán hàng có thể thấy, tổng chi phí bán hàng Quý 1 năm nay tăng mạnh hơn tốc độ tăng của doanh thu chủ yếu là do các doanh nghiệp đẩy mạnh quảng cáo, khuyến mãi nhằm giữ thị phần trong bối cảnh cạnh tranh cao hơn (tiêu biểu như VNM). Trong khi đó, thu nhập tài chính giảm do lãi tiền gửi giảm và một số doanh nghiệp không còn ghi nhận các khoản doanh thu tài chính bất thường như VIC (thanh lý công ty con & liên kết), PPC (lãi chênh lệch tỷ giá)… 

Như vậy, thống kê cho thấy kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết Quý 1/2014 không cao như kì vọng. Tăng trưởng lợi nhuận không theo kịp tăng trưởng doanh thu. Tuy vậy, nguyên nhân chủ yếu là do các yếu tố biến động bất thường như thu nhập tài chính, thu nhập khác… Doanh thu và lãi gộp của doanh nghiệp vẫn tăng trưởng khá so với cùng kỳ. Việc chi phí bán hàng tăng mạnh hơn doanh thu cũng cho thấy áp lực cạnh tranh cao hơn trong bối cảnh nhu cầu ngày một cải thiện.

 

Để có cái nhìn đầy đủ hơn về bức tranh hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết, chúng tôi loại bỏ các doanh nghiệp ngành Bảo hiểm, Dịch vụ tài chính, Bất Động Sản và Xây dựng ra khỏi mẫu. Chúng tôi cũng điều chỉnh một số yếu tố bất thường có thể ảnh hưởng lớn tới kết quả thống kê như khoản lợi nhuận khác trong Quý 1/2013 của GAS, khoản lợi nhuận từ chênh lệch tỷ giá Quý 1/2013 của PPC… Kết quả thống kê cho kết quả như sau:

Doanh thu thuần tăng trưởng 11.2% so với cùng kỳ, trong khi đó giá vốn hàng bán tăng nhanh hơn với mức tăng 12.2% dẫn đến lợi nhuận gộp chỉ tăng 6.3% so với cùng kỳ. Điều này khá phù hợp với kết quả khảo sát của HSBC thông qua các báo cáo PMI các tháng trong Quý 1/2014: Sản lượng và giá cả đầu vào tăng trong khi giá bán đầu ra không tăng tương ứng.

Thu nhập tài chính sau khi điều chỉnh khoản thu nhập từ chênh lệch tỷ giá của PPC giảm 20.7% so với cùng kỳ. Mặc dù lãi vay giảm giúp chi phí lãi vay giảm đến 13.3% nhưng tổng chi phí tài chính hầu như không giảm so với cùng kỳ. Trong khi đó chi phí bán hàng tăng đến 20% là nguyên nhân chính dẫn đến lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh giảm 3.9% so với cùng kỳ. Lợi nhuận trước thuế sau khi điều chỉnh khoản lợi nhuận khác của GAS trong Quý 1/2013 giảm 3.4%, lợi nhuận sau thuế giảm 3.6% so với cùng kỳ.

 

Quý 1/2014 có 515 trên tổng số 615 doanh nghiệp báo lãi, cao hơn so với 508 doanh nghiệp báo lãi của Quý 1/2013. Số doanh nghiệp báo lỗ cũng giảm với chỉ 99 doanh nghiệp báo lỗ so với 107 doanh nghiệp cùng kỳ.

Tuy vậy, tổng lãi của các doanh nghiệp có lãi lại sụt giảm so với cùng kỳ, trong khi tổng lỗ của các doanh nghiệp báo lỗ lại phình to ra.

 

Mặc dù tổng lợi nhuận sụt giảm, tuy nhiên số lượng doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tăng trưởng so với cùng kỳ lại tăng. Quý 1/2014, có 362 trên tổng số 615 doanh nghiệp trong mẫu có lợi nhuận tăng trưởng so với cùng kỳ, chiếm tỷ lệ 59%, cao hơn so với tỷ lệ 47% và 54% của Quý 1/2013 và Quý 4/2013.

 

Tại thời điểm cuối quý 1 năm 2014, tổng tài sản của các doanh nghiệp niêm yết tăng 7.7%, Vốn chủ sở hữu tăng 7.3%, Tổng vay nợ tăng 1.6%, Hàng tồn kho tăng 3.6% so với cùng thời điểm năm trước.

 

Bất động sản là ngành có giá trị tồn kho cao nhất hiện nay, chiếm 33.8% tổng giá trị hàng tồn kho. Tiếp theo là ngành Xây dựng & vật liệu. Giá trị tồn kho 2 ngành này lần lượt giảm 4.8% và 1.4% so với cùng thời điểm năm trước.

Một số ngành có giá trị tồn kho tăng cao so với cùng thời điểm năm trước là Bán lẻ (+102%); Điện, nước, xăng dầu, khí đốt (+39%); Dầu khí (+28%), Y tế (+21%)…

 

Phân tích chi tiết cho thấy, kết quả kinh doanh có sự phân hoá theo nhóm ngành. Ngành truyền thông(chủ yếu là các doanh nghiệp sách & sản phẩm văn hoá) có kết quả lợi nhuận Q1/2014 sụt giảm mạnh nhất (-130.4%), chủ yếu do chi phí giá vốn tăng. Các ngành Du lịch & giải trí, Hoá chất, Thực phẩm & Đồ uống, Bán lẻ… cũng có lợi nhuận giảm do nhu cầu sụt giảm.

Trong khi đó, một số ngành mang tính phòng thủ như Y tế, dầu khívẫn có được kết quả tăng trưởng lợi nhuận khả quan. Một số ngành hưởng lợi nhờ chi phí đầu vào giảm như Lốp xe tiếp tục có kết quả tăng trưởng lợi nhuận ổn định.

Ngành bất động sản có sự cải thiện lợi nhuận mạnh mẽ nhất (+256%) phần nào thể hiện sự cải thiện của hoạt động kinh doanh bất động sản trong nước. Ngành dịch vụ tài chính (chủ yếu là môi giới chứng khoán) cũng có kết quả lợi nhuận tăng trưởng mạnh nhờ thị trường chứng khoán sôi động.

Kết quả trên mặc dù có thể còn tồn tại một số đột biến do hạn chế về số liệu quan sát. Tuy nhiên, nhìn chung, kết quả phản ánh khá chính xác tình hình hoạt động của các nhóm ngành, lĩnh vực trong Quý 1 năm 2014.

 

Số liệu thống kê kết quả kinh doanh Quý 1/2014 của VN 30 và GAS cũng cho kết quả tương đồng với tổng thể. Doanh thu thuần và lãi gộp tăng trưởng tốt, lần lượt đạt 24.8% và 20.4%. Tuy nhiên lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh lại chỉ tăng 6%, lợi nhuận ròng giảm đến 6.6% so với cùng kỳ.

 

Doanh thu tài chính, lợi nhuận khác của VN 30 và GAS sụt giảm mạnh hơn tổng thể , trong khi đó, chi phí bán hàng và chi phí quản lý gia tăng mạnh hơn. Tổng chi phí tài chính Quý 1/2014 của VN 30 và GAS tăng 12.4% so với cùng kỳ

 

Tổng tài sản của VN 30 và GAS tại thời điểm cuối quý 1/2014 tăng 15.2%, vốn chủ sở hữu tăng 12%, tổng vay nợ tăng 13.2% và tổng tồn kho tăng 0.9% so với cùng thời điểm năm trước. 

Nguồn: finandlife|VFS Research

Tags: ,

Economics | VietnamData | Quarter

DISCLAIMER

I am currently serving as an Investment Manager at Vietcap Securities JSC, leveraging 16 years of experience in investment analysis. My journey began as a junior analyst at a fund in 2007, allowing me to cultivate a profound understanding of Vietnam's macroeconomics, conduct meticulous equity research, and actively pursue lucrative investment opportunities. Furthermore, I hold the position of Head of Derivatives, equipped with extensive knowledge and expertise in derivatives, ETFs, and CWs.

 

To document my insights and share personal perspectives, I maintain a private blog where I store valuable information. However, it is essential to acknowledge that the content provided on my blog is solely based on my own opinions and does not carry a guarantee of certainty. Consequently, I cannot assume responsibility for any trading or investing activities carried out based on the information shared. Nonetheless, I wholeheartedly welcome any questions or inquiries you may have. You can contact me via email at thuong.huynhngoc@gmail.com.

 

Thank you for your understanding, and I eagerly anticipate engaging with you on topics concerning investments and finance.

Designed by: Nguyễn Chí Hiếu