VNIndex trong tương quan với Dow Jones và Hang Seng

by finandlife24/04/2015 10:22

Câu nói quen thuộc của dân chứng khoán “gà rồi cũng sẽ về chuồng” có vẻ đúng không chỉ đối với từng cổ phiếu riêng lẻ mà còn đúng với cả quy mô thị trường.

Nếu như VNIndex có mức tăng trưởng vượt trội so với hầu hết chỉ số chứng khoán toàn cầu khác trong năm 2009, năm đầu tiên qua đáy khủng hoảng toàn cầu 2008. Thì tính đến thời điểm này, tức sau 6 năm, các chỉ số chứng khoán đều có thành tích tương tự nhau, VNIndex tăng trưởng 84%, Hang Seng tăng trưởng 96% và Dow Jones tăng trưởng 112%.

Biểu đồ chỉ số cho thấy, thị trường VN khá bất ổn, độ biến động khá lớn, trong khi đó, Dow Jones lại đi lên một cách chậm rãi và chắc chắn. Câu nói “muốn nhanh thì phải từ từ” có vẻ ứng dụng được trong trường hợp này.

Khi nhìn về mức độ định giá P/E, thị trường Mỹ lại đang có mức P/E cao hơn so với những quốc gia mới nổi và đang phát triển như VN và Trung Quốc. Điều này có thể đến từ 2 lý do, thứ nhất, nhà đầu tư kỳ vọng tăng trưởng của các công ty Mỹ cao hơn so với các doanh nghiệp tại VN và Trung Quốc, thứ hai, nhà đầu tư đánh giá rủi ro tại các thị trường biên và đang phát triển quá lớn và họ cần một phần bù rủi ro đủ rộng để đảm bảo cho khoảng mục đầu tư của mình.

Khi nhìn mức định giá P/E của riêng thị trường VN, chúng ta nhận thấy mức độ định giá của các doanh nghiệp đang khá rẻ, có đến 29% cổ phiếu có định giá P/E từ 5 đến 8 lần và chỉ 22% cổ phiếu có P/E lớn hơn 15 lần.

Như vậy, VN vẫn thể hiện độ bất ổn, nóng lạnh thường thấy của một thị trường mới nổi, có những năm tăng trưởng nóng, nhưng cũng có những năm tổn thương nặng nề. Hiện mức hồi phục so với đáy 2009 ở các thị trường khác nhau là khá tương đồng, và định giá thị trường trong nước có phần lợi thế, kỳ vọng một chu kỳ nóng mới sẽ quay trở lại trong 2016.

 

Nguồn: finandlife 

Tags:

Economics | StockAdvisory

Báo cáo chiến lược tháng 04/2015 phần 2

by finandlife09/04/2015 17:30

 

Xuất khẩu tháng 03 ước đạt 12.7 tỷ USD, tăng 33.5% sovới tháng trướcTính chung quý I, xuất khẩu ước đạt 35.7 tỷ USD, tăng 6.9% so với cùng kỳ năm 2014.

Mặt hàng tăng cao: Điện thoại các loại và linh kiện +21.9điện tử, máy tính và linh kiện +65.4%; giày dép +19.5%; máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng khác +16.7%; túi xách, vali, mũ, ô dù +19.9%.

Nhập khẩu tháng 03 ước đạt 13.3 tỷ USD, tăng 26.9% so với tháng trước. Tính chung quý Inhập khẩu ước tính đạt 37.5 tỷ USD, tăng 16.3% so với cùng kỳ năm 2014.

Mặt hàng tăng cao:Ô tô +73.6%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác +44.4%; điện tử, máy tính và linh kiện +31.1%; sản phẩm chất dẻo +27.4%; điện thoại các loại và linh kiện +25%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu +25%.

Tháng 02 nhập siêu 967 triệu USD, con số ước tính là xuất siêu 300 triệu USDTính chung quý Iước tính nhập siêu ước tính 1.8 tỷ USDtrong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 3.8 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 2 tỷ USD. 

Nếu sản xuất trong nước tiếp tục phục hồi, khả năng cán cân thương mại năm 2015 theo hướng nhập siêu do phần lớn nguyên, nhiên vật liệu đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất, gia công lắp ráp được nhập khẩu từ nước ngoài.

Tính đến 20/03/2015, cả nước có 267 dự án được cấpphép mới với số vốn đăng ký đạt 1.21 tỷ USD, bằng 59.4% so với cùng kỳ 2014. Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, FDI đạt 1.84 tỷ USD, bằng 55.1% so với cùng kỳ, FDI giải ngân đạt 3.05 tỷ USD, tăng 7%.

Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút FDI nhiều nhất chiếm 76.6%tổng vốn đăng ký,đứng thứ 2 là lĩnh vực kinh doanh bất động sản chiếm 11%, đứng thứ 3 là lĩnh vực bán buôn, bán lẻ, sửa chữa chiếm 6.7%. Theo đối tác đầu tư, Hàn Quốc dẫn đầu vốn đầu tư vào Việt Nam với 26.7%BritishVirgin Islands đứng thứ hai với 19.1% và Nhật Bản đứng thứ ba chiếm 16%.

Số liệu từ Tổng cục Thống kêtính đến 20/03/2015, tín dụng cả nước tăng 1.25%. Trái với quý I hàng năm, tín dụng thường không tăng hoặc tăng trưởng âm. Nguyên nhân tín dụng tăng nhanh này nhờ nền kinh tế đã hồi phục, mặt bằng lãi suất đang ở mức thấp kích thích vay vốn.

Bênh cạnh đó, tăng trưởng huy động chỉ tăng nhẹ 0.94% trong khi cùng kỳ năm trước tăng 2.7%. Tổng phương tiện thanh toán tăng 2.09% (cùng kỳ năm trước là 3.56%). Ngoài việc tiền chảy vào sản xuất kinh doanh, USD tăng giá, trong khi lãi suất huy động tiền đồng liên tục giảm được cho là một trong những nguyên nhân khiến huy động vốn tăng chậm lại. Hiện vốn huy động và cho vay của các ngân hàng được cho là cân bằng.

Từ đầu tháng 03, nhiều ngân hàng đã đồng loạt hạ lãi suất huy động,phổ biến ở mức 4-5.4%/năm đối với tiền gửi VNĐ kỳ hạn 1 đến dưới 6 tháng.

Động thái giảm lãi suất huy động này cũng nằm trong chủ trương chung của toàn ngành ngân hàng khiNHNN dự tính có thể sẽ tiếp tục giảm lãi suất cho vay trung dài hạn thêm 1-1.5%/năm trong năm nay. Hiện mặt bằng lãi suất cho vay VNĐ hiện ở mức 7% đối với các lĩnh vực ưu tiên; các lĩnh vực sản xuất thông thường là 7-9% đối với ngắn hạn và 9.5-10% đối với trung và dài hạn.

Thị trường liên ngân hàng, lãi suất tăng ở hầu hết các kỳ hạn chủ chốt, giao dịch chủ yếu tập trung kỳ hạn qua đêm.

Tháng 3/2015, thị trường sơ cấp huy động được 15,618 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, tỷ lệ trúng thầu đạt 51.21% giảm mạnh từ mức 91.9% của tháng trước. Lãi suất trúng thầu đồng loạt giảm ở tất cả các kỳ hạn so với tháng trước.

Thị trường thứ cấp, tổng giá trị giao dịch là 122,891 tỷ đồng, tăng gần gấp 3 lần so với tháng trướcGiá trị giao dịch Outright của tháng 3 đạt 88,853 tỷ đồng, chiếm 72.3%. Giao dịch TPCP đạt 98,714 tỷ đồng, chiếm 80.33%.

Lợi suất giao dịch TPCP cuối tháng 3 đã tăng ở tất cả các kỳ hạn so với tháng trước: 1 năm +31.5 điểm, 2 năm +30.9 điểm, 3 năm +31.8 điểm, 5 năm +17.3 điểm, 7 năm +7 điểm và 10 năm -1.4 điểm.

Trong tháng 03, trên thị trường ngoại hối, tỷ giá có nhiều thời điểm biến động tăng mạnh trước áp lực tăng cao của đồng USD. Các NHTM đã bất ngờ điều chỉnh tỷ giá tăng đến 21,420-21,580 đồng/USD ngày 16/3 (tuy nhiên vẫn còn thấp hơn mức trần 21,672 đồng/USD). Thị trường tự do, tỷ giá có thời điểm lên mức 21,800 đồng/USD.

Trước diễn biến này, chiều ngày 25/3, NHNN đã chính thức đưa ra thông điệp ổn định thị trường khi khẳng định sẽ không điều chỉnh tý giá mà tiếp tục điều hành ổn định tỷ giá giai đoạn này. Tính đến thời điểm cuối tháng 03, tỷ giá bán USD của VCB ở mức 21,590 đồng/USD. Thị trường tự do, tỷ giá VND/USD tăng cao ở mức 21,640 chiều bán ra.

Theo Hiệp Hộicác Nhà sản xuất Ôtô VN (VAMA), trong tháng 02/2015 doanh số bán hàng của toàn thị trường đạt 12,329 xe, giảm 38% so với tháng 1/2015 và tăng 69% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh số xdu lịchđạt 8,899 xe, giảm 35%so với tháng trước và doanh số xe thương mạiđạt 3,430 xe, giảm 46%. Sản lượng xe lắp ráp trong nước đạt 7,914 xe, giảm 41% so với tháng trước, số lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc là 4,415 xe, giảm 32%.

Tính chung 02 tháng đầu năm, doanh số bán hàng toàn thị trường tăng 76% so với cùng kỳ năm trước.

Giá cả hàng hóa tháng 02/2015 tăng 5.5% so với tháng trước và là mức tăng lần đầu tiên trong vòng 8 tháng qua, chủ yếu phản ánh sự phục hồi mạnh của giá dầu. Giá cả hàng hóa phi nhiên liệu giảm 2.2%, ảnh hưởng bởi sự tăng giá của đồng đô la Mỹ (khoảng 1.3%) và nhu cầu tăng chậm của Trung Quốc.

Giá dầu thô đã tăng 15.8% trong tháng 02, trung bình ở mức 54.9 $/thùng do nhu cầu tăng cao và một số biến động trong nguồn cung, thấp hơn 55% kể từ tháng 6/2014. Giá khí đốt tự nhiên ở Mỹ đã giảm 4.3% trong tháng 02, bình quân ở mức 2.85$/mmbtu do trữ lượng dồi dào mặc dù nhu cầu sửi ấm tăng, dự kiến giá sẽ giảm trong tháng 03 khi mùa lạnh bắt đầu qua.

Giá hàng hóa nông nghiệp đã giảm 2.2% trong tháng 02, là tháng giảm thứ 9 liên tiếp do nguồn cung dồi dào ở hầu hết các mặt hàng. Mức giảm mạnh nhất ở thịt heo (-8%), thịt bò (-10%), đậu nành và bột đậu nành (-7%), cà phê Arabica (-8%), lúa mì (-5%), đường (-4%)… Trong khi giá cao su tăng 9% do giảm sản lượng theo mùa ở Thái Lan.

Giá hàng hóa kim loại giảm 2.2% trong tháng 02 và là tháng giảm thứ 7 liên tiếp do nhu cầu tăng chậm lại ở Trung Quốc và nguồn cung tiếp tục tăng. Mức giảm khá lớn ở quặng sắt (-7%), nikel (-2%), đồng (-2%) trong khi uranium tăng 6% do gián đoạn nguồn cung ở Úc.

DIỄN BIẾN CHỈ SỐ GIÁ MỘT SỐ HÀNG HÓA THẾ GIỚI THÁNG 3 (NĂM 2010=100)

Thị trường chứng khoán trong tháng 3 chứng kiến sự sụt giảm tương đối mạnh của cả 2 chỉ số chính.

VNINDEX kết thúc tháng 3 ở mức 551.13 điểm, giảm 41.44 điểm, tương đương giảm 7% so với cuối tháng trước. Thanh khoản trung bình trong tháng đạt 1,556.4 tỷ đồng/phiên, tăng 27.8% so với thanh khoản trung bình tháng trước.

Tương tự, HNXINDEX giảm 3.5 điểm, tương đương giảm 4% so với cuối tháng trước. Thanh khoản trung bình trong tháng đạt 514.9 tỷ đồng/phiên, tăng 18.4% so với tháng trước.

Mặc dù thanh khoản tháng 3 có cải thiện so với tháng 2 (tháng có kỳ nghỉ lễ tết nguyên đán) nhưng vẫn ở mức thấp so với giai đoạn trước. Tính chung cho cả Quý 1/2015, thanh khoản trung bình chỉ đạt 1,489 tỷ đồng/phiên trên HSX và 531.8 tỷ đồng/phiên trên HNX, lần lượt giảm 26% và 37% so với thanh khoản trung bình Quý 4/2014.

Nguyên nhân theo chúng tôi có thể do (1) những thay đổi pháp lý nhắm vào dòng tiền đã chặn 1 lượng lớn tiền nóngvào chứng khoán; (2) thanh khoản của thị trường bất động sản cải thiện đã hút một lượng tiền đáng kể từ thị trường và (3)một lượng vốn lớn của nhà đầu tư trên thị trường bị “chôn” vào các đợt phát hành “khủng” thời gian qua…

Sau khi mua ròng 1,162 tỷ đồng trong tháng 2, nhà đầu tư nước ngoài quay lại bán ròng trong tháng 3 với tổng giá trị 926 tỷ đồng trên cả 2 sàn. Luỹ kế Quý 1, khối ngoại mua ròng 57 tỷ đồng, giảm mạnh so với con số mua ròng 800 tỷ cùng kỳ năm trước.

Top 5 cổ phiếu được khối ngoại mua ròng mạnh nhất trong tháng bao gồm KBC (318 tỷ), KDC (278.2 tỷ), MWG (173.6 tỷ), BID (124.6 tỷ) và CTG (97.6 tỷ). Trong khi đó Top 5 cổ phiếu bị khối ngoại bán ròng mạnh nhất gồm PVD (-432.4 tỷ), GAS (-359.8 tỷ), HPG (-247.4 tỷ), VCB (-246.8 tỷ) và VIC (-208.4 tỷ).

Đáng chú ý trong tháng là giao dịch của quỹ VNM ETF. Ngoài việc gây bất ngờ trong kỳ review danh mục khi loại 2 cổ phiếu ngoại và thêm mới 2 cổ phiếu nội (KBC, KDC), quỹ này liên tiếp bị rút vốn trong nửa cuối tháng, là nguyên nhân chính dẫn đến kết quả bán ròng của khối ngoại và tâm lý e ngại trên thị trường. Cụ thể trong tháng 3 quỹ này bị rút ròng 2,450,000 chứng chỉ quỹ, tương đương khoảng 41.6 triệu USD (~890 tỷ đồng). Đặc biệt có những phiên quỹ này bị rút vốn với khối lượng kỷ lục (1 triệu chứng chỉ quỹ) gây ra những tác động tiêu cực lên tâm lý thị trường.

Trong tháng 3, sự sụt giảm xảy ra ở hầu hết các nhóm ngành, ngoại trừ nhóm Bất động sản (+4%) và Thương mại (+3%). Ngành thuỷ sản có mức độ sụt giảm mạnh nhất (-15%), tiếp theo là Ngành Bảo hiểm (-12%), Khai khoáng (-10%)…

Ngành Ngân hàng giảm 6% trong tháng 3, tuy vậy vẫn giữ được mức tăng 20% so với đầu năm. Tiếp đến là ngành Cơ khí (+11%), Sản xuất thiết bị điện – điện tử - viễn thông (+9%)… Công Nghệ thông tin – Truyền Thông (-21%), Sản xuất tôn thép (-17%)… là những ngành có mức độ sụt giảm mạnh nhất so với đầu năm

XU HƯỚNG THỊ TRƯỜNG THÁNG 4/2015

Thị trường tiếp tục bước vào tháng 4 với những phiên giao dịch ảm đạm. Điểm số mặc dù có dấu hiệu ngừng rơi nhưng thanh khoản chưa có dấu hiệu cải thiện. Quỹ VNM ETF tiếp tục bị rút ròng tạo tâm lý dè chừng trên thị trường.

Sự nới lỏng tại Trung Quốc, Châu Âu, Nhật đã làm đồng nội tệ tại những quốc gia này sụt giảm mạnh so với USD.Trong khi đó, Ngân hàng nhà nước vẫn kiên định đi theo chính sách tỷ giá neo ổn định VND với USD, đã làm cho chứng khoán Việt Nam kém hấp dẫn một cách tương đối so với những thị trường khác, đặc biệt là với các quỹ đầu tư chỉ số ETFs, dẫn đến động thái rút ròng của dòng tiền nóng này.

Mặc dù vậy, chúng tôi cho tằng, thị trường giảm điểm trong giai đoạn qua đã giúp nhiều cổ phiếu về vùng định giá rẻ, thêm vào đó, tâm lý sợ hãi đang bao trùm. Nghiên cứu lịch sử của 2 chỉ báo này, chúng tôi nhận thấy “đây là vùng mua có rủi ro trung hạn thấp nhất”. Ngoài ra, các chỉ báo kinh tế vĩ mô cho thấy nền kinh tế trong nước vẫn duy trì tốc độ phục hồi tốt, chúng tôi khuyến nghị nhà đầu tư nên gia tăng tỷ trọng cổ phiếu.

Tags: ,

Economics | StockAdvisory

Báo cáo chiến lược tháng 04/2015 phần 1

by finandlife09/04/2015 17:21

Tóm tắt diễn biến vĩ mô tháng 03/2015:

§     Tăng trưởng kinh tế phục hồi mạnh trong quý 1 với GDP tăng 6.03% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất của quý 1 trong vòng 5 năm qua.

§     Lạm phát ở mức thấp khi CPI tháng 03/2015 tăng nhẹ 0.15% so với tháng trước, bình quân quý 1 tăng 0.74% so với cùng kỳ là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây.

§     Sản xuất tiếp tục cải thiện nhờ chi phí đầu vào giảm, chỉ số sản xuất công nghiệp IIP quý 1 tăng 9.1%, (cùng kỳ năm trước tăng 5.3%), chỉ số PMI đạt 50.3 điểm. Ước tính nhập siêu 1.8 tỷ USD trong quý 1 để phục vụ sản xuất, gia công, lắp ráp.

§     Cầu tiêu dùng cải thiện khi tổng mức bán lẻ hàng hóa quý 1 tăng 9.2% so với cùng kỳ (sau khi loại yếu tố giá).

§     FDI cả cấp mới và tăng vốn đến 20/3 ước đạt 1.84 tỷ USD, bằng 55.1% cùng kỳ, FDI giải ngân đạt 3.05 tỷ USD, tăng 7%.

§     Thị trường tiền tệ tiếp tục được duy trì ổn định. Khu vực trái phiếu chính phủ, lợi suất giao dịch tăng ở tất cả kỳ hạn.

Tóm tắt diễn biến thị trường và nhận định:

§     VNINDEX đóng cửa ở mức 551.13 điểm, giảm 41.44 điểm, tương đương giảm 7% so với cuối tháng trước. HNXINDEX giảm 3.5 điểm, tương đương giảm 4% so với cuối tháng trước.

§     Trong tháng 3, sự sụt giảm xảy ra ở hầu hết các nhóm ngành, ngoại trừ nhóm Bất động sản (+4%) và Thương mại (+3%). Ngành thuỷ sản có mức độ sụt giảm mạnh nhất (-15%), tiếp theo là Ngành Bảo hiểm (-12%), Khai khoáng (-10%)…

§     Thị trường tiếp tục bước vào tháng 4 với những phiên giao dịch ảm đạm. Điểm số mặc dù có dấu hiệu ngừng rơi nhưng thanh khoản chưa có dấu hiệu cải thiện. Quỹ VNM ETF tiếp tục bị rút ròng tạo tâm lý dè chừng trên thị trường.

§     Chúng tôi cho tằng, thị trường giảm điểm trong giai đoạn qua đã giúp nhiều cổ phiếu về vùng định giá rẻ, thêm vào đó, tâm lý sợ hãi đang bao trùm. Nghiên cứu lịch sử của 2 chỉ báo này, chúng tôi nhận thấy “đây là vùng mua có rủi ro trung hạn thấp nhất”. Ngoài ra, các chỉ báo kinh tế vĩ mô cho thấy nền kinh tế trong nước vẫn duy trì tốc độ phục hồi tốt, chúng tôi khuyến nghị nhà đầu tư nên gia tăng tỷ trọng cổ phiếu.

----------------------------

Các chỉ số chính:

§     Sản lượng sản xuất đạt 53.4 điểm, tăng từ 53.2 điểm tháng trước

§     Đơn đặt hàng mới tăng nhẹ lên 52.3 từ mức 52.2 tháng trước

§     Đơn đặt hàng xuất tăng nhẹ lên 50.9 từ mức 50.8 tháng trước

§     Việc làm mới đạt 50.7 điểm, thấp hơn 51.0 điểm của tháng trước

§     Giá đầu vào tăng đạt 49 điểm, cao hơn 48.7 điểm của tháng trước

§     Giá đầu ra đạt 49.7 điểm tăng nhẹ so với tháng trước (49.6 điểm) 

Trong tháng 03/2015, lĩnh vực sản xuất toàn cầu tiếp tục mở rộng nhưng ở mức khiêm tốn và vẫn chưa ổn định, PMI đạt 51.8 điểm, thấp hơn một chút so với mức 51.9 điểm trong tháng 02, là tháng tăng trưởng thứ 28 liên tiếp.

Tại Mỹ, PMI đạt mức cao nhất trong 5 tháng qua nhờ sự tăng nhanh hơn trong sản xuất và lượng đơn đặt hàng mới.

Khu vực Eurozone, sản xuất tăng mạnh với mức PMI cao nhất trong vòng 10 tháng qua và cao hơn trung bình toàn cầu lần đầu kể từ tháng 4/2014. Trong đó, sản xuất mở rộng tại Đức, Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan và Ireland trong khi co hẹp tại Pháp, Áo, và Hy Lạp.

Tại châu Á, tăng trưởng sản xuất đã dịu bớt. Trong đó PMI dưới mốc 50 tại Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia trong khi mở rộng tại Nhật Bản, Đài Loan và Việt Nam nhưng là yếu hơn so với tháng trước.

Chi phí đầu vào giảm nhẹ trong tháng 03, mức giảm đã dịu so với hai tháng trước, xu hướng tương tự trong giá bán ra.

Nhìn chung, sản xuất toàn cầu tiếp tục mở rộng nhưng tốc độ yếu hơn trong quý 1. Việc sản lượng sản xuất và lượng đơn đặt hàng mới duy trì mức tăng như những tháng gần đây và sự sụt giảm trong hàng tồn kho thành phẩm là những dấu hiện tích cực, kỳ vọng sự phục hồi sẽ tăng tốc trong quý 2.

 

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2015 ước tính tăng 6.03% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng cao nhất của quý I trong 5 năm qua.

Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8.35%, đóng góp nhiều nhất trong mức tăng chung là 2.82 điểm phần trăm. Trong đó, ngành công nghiệp tăng 9.01%, cao hơn nhiều so với mức tăng của một số năm trước, ngành xây dựng tăng 4.40%, thấp hơn mức tăng 5.93% của cùng kỳ năm trước.

Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 2.14%, đóng góp 0.28 điểm phần trăm. Trong đó, ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảng 71%) nhưng tăng thấp ở mức 1.54%, thủy sản tăng 3.38%, lâm nghiệp tăng 6.02%.

Khu vực dịch vụ tăng 5.82%, đóng góp 2.36 điểm phần trăm. Một số ngành có đóng góp lớn vào mức tăng trưởng chung: Bán buôn và bán lẻ tăng 7.11%; dịch vụ lưu trú và ăn uống +5.9%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 5.65%; hoạt động kinh doanh bất động sản cải thiện với mức tăng 2.55% (năm trước là 2.28%).

Về cơ cấu, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 12.35%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34.80%; khu vực dịch vụ chiếm 42.23%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10.62%.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 03/2015tăng 0.15% so với tháng trướcchủ yếu do ảnh hưởng từ nhu cầu tiêu dùng dịp lễ, Tết nên giá nhiều loại hàng hóa tăng. Mặt khác giá gas và giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh tăng cũng tác động vào CPI (đóng góp 0.04% vào mức tăng chung).

Nhóm hàng hóa và dịch vụ có giá tăng cao: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống +0.36%văn hóa, giải trí và du lịch +0.18%nhà ở và vật liệu xây dựng +0.16%.

Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác có giá tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Thiết bị đồ dùng gia đình +0.09%; thuốc và dịch vụ y tế +0.04%; giáo dục +0.01%; giao thông -0.31%; đồ uống và thuốc lá -0.11%; may mặc, mũ nón, giày dép -0.04%; bưu chính viễn thông -0.02%.

Tổng kết, CPI tháng 03/2015 giảm 0.10% so với tháng 12/2014 và tăng 0.93% so với cùng kỳ năm trướcbình quân quý I năm nay tăng 0.74% so với bình quân cùng kỳ năm 2014, đây là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại.

Theo dự báo từ UBGSTKQG, lạm phát cơ bản năm 2015 khoảng 3.5%. Trong điều kiện giá lương thực và năng lượng được dự báo giảm trong năm 2015, khả năng đạt mục tiêu 5% về lạm phát tổng thể sẽ phụ thuộc chủ yếu vào mức độ điều chỉnh giá điện. UBGSTCQG ước tính mức tăng giá điện bình quân 7.5% (ngày 16/3) có ảnh hưởng làm lạm phát cả năm tăng thêm khoảng 0.5 điểm %.

Những đặc điểm chính:

§     Sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng.

§     Chi phí đầu vào tiếp tục giảm mạnh.

§     Việc làm giảm nhẹ.      

Chỉ số PMI ngành sản xuất Việt Nam tháng 03/2015đạt 50.7 điểm, giảm so với mức 51.7 điểm của tháng trước, tuy nhiên vẫn cho thấy sự cải thiện về điều kiện hoạt động trong lĩnh vực sản xuất tháng thứ 19 liên tiếp.

Nhân tố chính giúp cải thiện các điều kiện kinh doanh là cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều tiếp tục tăng. Sản lượng đã tăng tháng tăng thứ 18 liên tiếp với mức tăng là mạnh. Số lượng đơn đặt hàng mới tăng nhưng mức tăng khiêm tốn. Trong đó, đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã tăng sau khi giảm trong tháng trước.

Việc làm ngành sản xuất đã giảm trong tháng 3 sau khi tăng liên tục trong sáu tháng qua, mức giảm là nhẹ một phần do thiếu hụt nhân công.

Chi phí đầu vào tiếp tục giảm mạnh chủ yếu do giá nhiên liệu giảm. Các công ty tiếp tục giảm giá đầu ra tuy nhiên mức giảm là chậm nhất trong 4 tháng qua. Tồn kho thành phẩm đã giảm và mức giảm là mạnh nhất kể từ tháng 6/2014.

Tổng kết, lĩnh vực sản xuất ở Việt Nam tiếp tục mở rộng vào thời điểm cuối quý I, khi các công ty bảo đảm có được số lượng đơn đặt hàng mới lớn hơn từ cả khách hàng trong nước và nước ngoài. Giá cả hàng hóa giảm trên thị trường thế giới tiếp tục góp phần làm giảm giá đầu vào, và nhờ đó các công ty có thể giảm giá bán đầu ra cho khách hàng.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 03 ước tính tăng 9.1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2015 tăng 9.1%, cao hơn nhiều so với mức tăng 5.3% của cùng kỳ năm trước.

Theo nhóm ngành, khai khoáng +6.7%, đóng góp 1.5 điểm phần trăm vào mức tăng chung; chế biến chế tạo +9.6% đóng góp 6.8 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện +12.1%, đóng góp 0.8 điểm phần trăm; cung cấp, xử lý nước thải, rác thải +7.8%, đóng góp 0.1 điểm phần trăm.

Một số ngành có chỉ số sản xuất quý I tăng cao so với cùng kỳ năm trước: SX xe có động cơ +42.9%; SX da và các sản phẩm có liên quan +26.1%; SX sản phẩm điện tử, máy tính và quang học +22.6%; SX giấy và các sản phẩm từ giấy +20.4%; dệt +14.7%.

Mức tăng chỉ số sản xuất công nghiệp tại một số địa phương: Thái Nguyên tiếp tục tăng cao ở mức 568.1%; Hải Phòng +15.1%; Quảng Nam +13.4%; Cần Thơ +13.4%; Đồng Nai +8.3%; Đà Nẵng +8.2%; Hà Nội +7.7%; Hải Dương +6.1%; Bình Dương +5.9%; TP.HCM+5.5%.

 

Tại thời điểm 01/03/2015, chỉ số hàng tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10.9% so với cùng thời điểm năm 2014, chỉ số sử dụng lao động tăng 5.4%.

Tổng mc bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 03ước đạt 253.5 nghìn tỷ đồnggiảm6.4% so với tháng trước và tăng 9.4% so với cùng kỳ năm trước.

Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa chiếm 77.3%, giảm 5.1% so với tháng trước và tăng 11.1% so với cùng kỳ năm trước. Do tháng 03 là tháng sau tết nên doanh thu một số ngành hàng giảm so với tháng trước: Lương thực, thực phẩm -8.4%; đồ dùng, dụng cụ gia đình -5.7%; phương tiện đi lại -5.1%; vật phẩm văn hoá giáo dục -3.3%; riêng nhóm hàng may mặc giảm nhiều ở mức 10,5%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú ăn uống chiếm 10.4%, giảm 17.3% so với tháng trước và tăng 3.3% so với cùng kỳ.

Doanh thu du lịch lữ hành chiếm 0.8%, giảm 7.9% so với tháng trước và giảm 29.4% so với cùng kỳ. Một số địa phương tăng cao: Thừa Thiên Huế +17%, TP. HCM +3.5%, Hà Nội +0.8%, Bà Rịa Vũng Tàu +0.6%.

Doanh thu dịch vụ khác chiếm 11.6%, giảm 3.9% so với tháng trước và tăng 9.7% so với cùng kỳ.

 

Tính chung 3 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 790.8 nghìn tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ, loại trừ yếu tố giá tăng 9.2%, cao hơn mức tăng 5.1% của cùng kỳ năm 2014. 

 

VFS Research

Tags: ,

Economics | StockAdvisory

Khi nét vẽ giả dối…

by finandlife02/04/2015 10:37

Bất chấp báo cáo tăng trưởng GDP quý 1 vô cùng ấn tượng, chứng khoán trong nước vẫn kiên định đi xuống. Vì đâu nên nổi?

Thứ nhất, mức độ hoàn hảo của thị trường Việt Nam khá thấp, do vậy, việc tăng trưởng GDP nhiều khi không liên quan đến thị trường, chứng khoán chưa phải là phong vũ biểu của nền kinh tế.

Phân tích sự truyền dẫn của tăng trưởng kinh tế đến thị trường chứng khoán, một cách chuẩn mực phải là thế này! GDP tăng trưởng ngoài dự kiến cho thấy các thành phần kinh tế trong nước duy trì được đà tăng trưởng tốt, và trong môi trường chung đó, doanh nghiệp sẽ được kỳ vọng làm ăn thuận lợi hơn, mà làm ăn thuận lợi hơn thì sẽ giúp thu nhập của doanh nghiệp tăng, khi đó sẽ tác động tích cực lên thu nhập mỗi cổ phần (EPS), và theo đó, kỳ vọng cổ tức cũng sẽ cao hơn. Tất cả những điều đó sẽ giúp cho thị trường tăng điểm sau đó.

Nhưng có vẻ điều đó không liên quan lắm ở Việt Nam. Chứng khoán Việt Nam mang tính đầu cơ khá cao, mà một thị trường biến động lớn, tăng giảm lớn mới có thể thu hút được người đầu cơ, và nếu vậy, thị trường VN đang mất tính cạnh tranh so với Trung Quốc hiện tại, Shanghai Composite đã tăng 81% so với đầu năm, trong khi chứng khoán trong nước thì lại liên tục đi xuống. Tiền đầu cơ sẽ chọn TQ thay vì VN.

Thứ hai, lòng tin vào con số thống kê đang ở vùng đáy của lịch sử. Những con số luôn đẹp đẽ và truyền đi thông điệp kinh tế đang cải thiện, nhưng người dân thì lại tự xây dựng những hệ thống chỉ báo riêng, theo đó, họ tin những cái thực tế, là việc làm đang khó khăn, thu nhập không cải thiện, và chất lượng cuộc sống ngày càng đi xuống. Chính vì điều đó, những con số đã không còn làm đúng cái chức năng vốn dĩ, sơ khai của nó nữa và nhà đầu tư thờ ơ là phải.

Thứ ba, nhà đầu tư đang bấn loạn khi anh cả “Tây lông đội nón ra đi”. Không chỉ trong đời sống mua sắm hàng hóa, mà ngay cả trên thị trường chứng khoán Việt Nam, nhà đầu tư cũng vô cùng sính ngoại. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, mối tương quan giữa động thái mua ròng của nhà đầu tư nước ngoài đến chỉ số chứng khoán lên đến >80%, theo đó, nước ngoài mua ròng thị trường sẽ dễ tăng điểm và ngược lại.

Trong thời gian 1 tháng vừa qua, do những tác động bên ngoài mà quỹ đầu tư chỉ số ETFs đã liên tục bán ròng ở VN. Vốn dĩ quen thuộc với việc đi theo chân nước ngoài, giờ đây nhà đầu tư bỗng trở nên lạc lõng, không biết phải theo ai. Có thể ví thị trường thời gian vừa qua như rắn mất đầu. Nhà đầu tư mất phương hướng, tán loạn. Nhiều người ngơ ngác hỏi “khi nào Tây quay lại?”. Thật khó để trả lời, nhưng có lẽ họ sẽ không sớm quay lại khi những thị trường khác đang quá hấp dẫn nhờ đồng nội tệ giảm và chỉ số chứng khoán dậy sóng. Hãy nhớ lại đợt đội nón ra đi của dòng vốn nóng trong quý 4/2014, thị trường đã giảm đúng 1 quý.

 

Nguồn: finandlife

Tags:

Economics

Chứng khoán Trung Quốc đang bị đầu cơ điên cuồng

by finandlife02/04/2015 09:42

Shanghai Composite đã trở thành chỉ số chứng khoán tăng mạnh nhất toàn cầu, tính từ đầu năm đến nay, chỉ số này đã tăng 86.1%. Cùng với đó, hoạt động đầu cơ đã diễn ra điên cuồng hơn bao giờ hết.

Số lượng tài khoản A-Share (tài khoản chứng khoán Trung Quốc, giao dịch bằng đồng Nhân Dân Tệ) tăng trưởng một cách đột biến và xu hướng này chưa có dấu hiệu dừng lại.

Một điểm đáng lo ngại hơn cả là những người mới đến với thị trường có trình độ chuyên môn, trình độ kiến thức khá thấp.

Không dừng lại ở đó, hoạt động đầu cơ còn thể hiện rất rõ trên số liệu dư nợ margin. Dư nợ margin đã tăng trưởng chóng mặt cuối 2014 đến hiện nay, hiện nay tỷ lệ này cao kỷ lục.

Cũng như bao nhiêu cơn sốt và bong bóng khác, tỷ suất sinh lợi quá lớn từ thị trường chứng khoán đã lôi kéo một tầng lớp nhà đầu tư mới và ngày càng phổ thông, đi kèm với đó là việc lạm dụng tiền vay để đổ vào canh bạc này. Ai cũng nghĩ mình đủ nhanh để chuyền cục than đó cho người khác, nhưng rồi cái kết bao giờ cũng giống nhau, những người đến sau, những người chậm chân, những người tham lam đánh cú chót sẽ phải chịu trận.

 

Nguồn: finandlife|http://soberlook.com/

Tags:

Economics

DISCLAIMER

I am currently serving as an Investment Manager at Vietcap Securities JSC, leveraging 16 years of experience in investment analysis. My journey began as a junior analyst at a fund in 2007, allowing me to cultivate a profound understanding of Vietnam's macroeconomics, conduct meticulous equity research, and actively pursue lucrative investment opportunities. Furthermore, I hold the position of Head of Derivatives, equipped with extensive knowledge and expertise in derivatives, ETFs, and CWs.

 

To document my insights and share personal perspectives, I maintain a private blog where I store valuable information. However, it is essential to acknowledge that the content provided on my blog is solely based on my own opinions and does not carry a guarantee of certainty. Consequently, I cannot assume responsibility for any trading or investing activities carried out based on the information shared. Nonetheless, I wholeheartedly welcome any questions or inquiries you may have. You can contact me via email at thuong.huynhngoc@gmail.com.

 

Thank you for your understanding, and I eagerly anticipate engaging with you on topics concerning investments and finance.

Designed by: Nguyễn Chí Hiếu