Thống kê kết quả kinh doanh quý 1/2015, cập nhật đến 15/05/2015

by finandlife15/05/2015 14:49

Tính đến ngày 15/05/2015, đã có 421 công ty trên HSX và HNX công bố kết quả kinh doanh quý 1 - 2015. Có 55 công ty thua lỗ và 366 công ty có lợi nhuận. 421 công ty này có tổng doanh thu thuần đạt gần 110 ngàn tỷ đồng, tăng 7.1% so với cùng kỳ 2014 và có tổng lợi nhuận sau thuế đạt 5,700 tỷ đồng, tăng 10.2% so với cùng kỳ 2014. Biên lợi nhuận gộp quý 1 năm nay đạt 14% - không đổi so với cùng kỳ 2014.

 

VFS Research

Tags: ,

Economics

Báo cáo chiến lược tháng 04/2015 phần 2

by finandlife09/04/2015 17:30

 

Xuất khẩu tháng 03 ước đạt 12.7 tỷ USD, tăng 33.5% sovới tháng trướcTính chung quý I, xuất khẩu ước đạt 35.7 tỷ USD, tăng 6.9% so với cùng kỳ năm 2014.

Mặt hàng tăng cao: Điện thoại các loại và linh kiện +21.9điện tử, máy tính và linh kiện +65.4%; giày dép +19.5%; máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng khác +16.7%; túi xách, vali, mũ, ô dù +19.9%.

Nhập khẩu tháng 03 ước đạt 13.3 tỷ USD, tăng 26.9% so với tháng trước. Tính chung quý Inhập khẩu ước tính đạt 37.5 tỷ USD, tăng 16.3% so với cùng kỳ năm 2014.

Mặt hàng tăng cao:Ô tô +73.6%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác +44.4%; điện tử, máy tính và linh kiện +31.1%; sản phẩm chất dẻo +27.4%; điện thoại các loại và linh kiện +25%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu +25%.

Tháng 02 nhập siêu 967 triệu USD, con số ước tính là xuất siêu 300 triệu USDTính chung quý Iước tính nhập siêu ước tính 1.8 tỷ USDtrong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 3.8 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 2 tỷ USD. 

Nếu sản xuất trong nước tiếp tục phục hồi, khả năng cán cân thương mại năm 2015 theo hướng nhập siêu do phần lớn nguyên, nhiên vật liệu đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất, gia công lắp ráp được nhập khẩu từ nước ngoài.

Tính đến 20/03/2015, cả nước có 267 dự án được cấpphép mới với số vốn đăng ký đạt 1.21 tỷ USD, bằng 59.4% so với cùng kỳ 2014. Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, FDI đạt 1.84 tỷ USD, bằng 55.1% so với cùng kỳ, FDI giải ngân đạt 3.05 tỷ USD, tăng 7%.

Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút FDI nhiều nhất chiếm 76.6%tổng vốn đăng ký,đứng thứ 2 là lĩnh vực kinh doanh bất động sản chiếm 11%, đứng thứ 3 là lĩnh vực bán buôn, bán lẻ, sửa chữa chiếm 6.7%. Theo đối tác đầu tư, Hàn Quốc dẫn đầu vốn đầu tư vào Việt Nam với 26.7%BritishVirgin Islands đứng thứ hai với 19.1% và Nhật Bản đứng thứ ba chiếm 16%.

Số liệu từ Tổng cục Thống kêtính đến 20/03/2015, tín dụng cả nước tăng 1.25%. Trái với quý I hàng năm, tín dụng thường không tăng hoặc tăng trưởng âm. Nguyên nhân tín dụng tăng nhanh này nhờ nền kinh tế đã hồi phục, mặt bằng lãi suất đang ở mức thấp kích thích vay vốn.

Bênh cạnh đó, tăng trưởng huy động chỉ tăng nhẹ 0.94% trong khi cùng kỳ năm trước tăng 2.7%. Tổng phương tiện thanh toán tăng 2.09% (cùng kỳ năm trước là 3.56%). Ngoài việc tiền chảy vào sản xuất kinh doanh, USD tăng giá, trong khi lãi suất huy động tiền đồng liên tục giảm được cho là một trong những nguyên nhân khiến huy động vốn tăng chậm lại. Hiện vốn huy động và cho vay của các ngân hàng được cho là cân bằng.

Từ đầu tháng 03, nhiều ngân hàng đã đồng loạt hạ lãi suất huy động,phổ biến ở mức 4-5.4%/năm đối với tiền gửi VNĐ kỳ hạn 1 đến dưới 6 tháng.

Động thái giảm lãi suất huy động này cũng nằm trong chủ trương chung của toàn ngành ngân hàng khiNHNN dự tính có thể sẽ tiếp tục giảm lãi suất cho vay trung dài hạn thêm 1-1.5%/năm trong năm nay. Hiện mặt bằng lãi suất cho vay VNĐ hiện ở mức 7% đối với các lĩnh vực ưu tiên; các lĩnh vực sản xuất thông thường là 7-9% đối với ngắn hạn và 9.5-10% đối với trung và dài hạn.

Thị trường liên ngân hàng, lãi suất tăng ở hầu hết các kỳ hạn chủ chốt, giao dịch chủ yếu tập trung kỳ hạn qua đêm.

Tháng 3/2015, thị trường sơ cấp huy động được 15,618 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, tỷ lệ trúng thầu đạt 51.21% giảm mạnh từ mức 91.9% của tháng trước. Lãi suất trúng thầu đồng loạt giảm ở tất cả các kỳ hạn so với tháng trước.

Thị trường thứ cấp, tổng giá trị giao dịch là 122,891 tỷ đồng, tăng gần gấp 3 lần so với tháng trướcGiá trị giao dịch Outright của tháng 3 đạt 88,853 tỷ đồng, chiếm 72.3%. Giao dịch TPCP đạt 98,714 tỷ đồng, chiếm 80.33%.

Lợi suất giao dịch TPCP cuối tháng 3 đã tăng ở tất cả các kỳ hạn so với tháng trước: 1 năm +31.5 điểm, 2 năm +30.9 điểm, 3 năm +31.8 điểm, 5 năm +17.3 điểm, 7 năm +7 điểm và 10 năm -1.4 điểm.

Trong tháng 03, trên thị trường ngoại hối, tỷ giá có nhiều thời điểm biến động tăng mạnh trước áp lực tăng cao của đồng USD. Các NHTM đã bất ngờ điều chỉnh tỷ giá tăng đến 21,420-21,580 đồng/USD ngày 16/3 (tuy nhiên vẫn còn thấp hơn mức trần 21,672 đồng/USD). Thị trường tự do, tỷ giá có thời điểm lên mức 21,800 đồng/USD.

Trước diễn biến này, chiều ngày 25/3, NHNN đã chính thức đưa ra thông điệp ổn định thị trường khi khẳng định sẽ không điều chỉnh tý giá mà tiếp tục điều hành ổn định tỷ giá giai đoạn này. Tính đến thời điểm cuối tháng 03, tỷ giá bán USD của VCB ở mức 21,590 đồng/USD. Thị trường tự do, tỷ giá VND/USD tăng cao ở mức 21,640 chiều bán ra.

Theo Hiệp Hộicác Nhà sản xuất Ôtô VN (VAMA), trong tháng 02/2015 doanh số bán hàng của toàn thị trường đạt 12,329 xe, giảm 38% so với tháng 1/2015 và tăng 69% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh số xdu lịchđạt 8,899 xe, giảm 35%so với tháng trước và doanh số xe thương mạiđạt 3,430 xe, giảm 46%. Sản lượng xe lắp ráp trong nước đạt 7,914 xe, giảm 41% so với tháng trước, số lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc là 4,415 xe, giảm 32%.

Tính chung 02 tháng đầu năm, doanh số bán hàng toàn thị trường tăng 76% so với cùng kỳ năm trước.

Giá cả hàng hóa tháng 02/2015 tăng 5.5% so với tháng trước và là mức tăng lần đầu tiên trong vòng 8 tháng qua, chủ yếu phản ánh sự phục hồi mạnh của giá dầu. Giá cả hàng hóa phi nhiên liệu giảm 2.2%, ảnh hưởng bởi sự tăng giá của đồng đô la Mỹ (khoảng 1.3%) và nhu cầu tăng chậm của Trung Quốc.

Giá dầu thô đã tăng 15.8% trong tháng 02, trung bình ở mức 54.9 $/thùng do nhu cầu tăng cao và một số biến động trong nguồn cung, thấp hơn 55% kể từ tháng 6/2014. Giá khí đốt tự nhiên ở Mỹ đã giảm 4.3% trong tháng 02, bình quân ở mức 2.85$/mmbtu do trữ lượng dồi dào mặc dù nhu cầu sửi ấm tăng, dự kiến giá sẽ giảm trong tháng 03 khi mùa lạnh bắt đầu qua.

Giá hàng hóa nông nghiệp đã giảm 2.2% trong tháng 02, là tháng giảm thứ 9 liên tiếp do nguồn cung dồi dào ở hầu hết các mặt hàng. Mức giảm mạnh nhất ở thịt heo (-8%), thịt bò (-10%), đậu nành và bột đậu nành (-7%), cà phê Arabica (-8%), lúa mì (-5%), đường (-4%)… Trong khi giá cao su tăng 9% do giảm sản lượng theo mùa ở Thái Lan.

Giá hàng hóa kim loại giảm 2.2% trong tháng 02 và là tháng giảm thứ 7 liên tiếp do nhu cầu tăng chậm lại ở Trung Quốc và nguồn cung tiếp tục tăng. Mức giảm khá lớn ở quặng sắt (-7%), nikel (-2%), đồng (-2%) trong khi uranium tăng 6% do gián đoạn nguồn cung ở Úc.

DIỄN BIẾN CHỈ SỐ GIÁ MỘT SỐ HÀNG HÓA THẾ GIỚI THÁNG 3 (NĂM 2010=100)

Thị trường chứng khoán trong tháng 3 chứng kiến sự sụt giảm tương đối mạnh của cả 2 chỉ số chính.

VNINDEX kết thúc tháng 3 ở mức 551.13 điểm, giảm 41.44 điểm, tương đương giảm 7% so với cuối tháng trước. Thanh khoản trung bình trong tháng đạt 1,556.4 tỷ đồng/phiên, tăng 27.8% so với thanh khoản trung bình tháng trước.

Tương tự, HNXINDEX giảm 3.5 điểm, tương đương giảm 4% so với cuối tháng trước. Thanh khoản trung bình trong tháng đạt 514.9 tỷ đồng/phiên, tăng 18.4% so với tháng trước.

Mặc dù thanh khoản tháng 3 có cải thiện so với tháng 2 (tháng có kỳ nghỉ lễ tết nguyên đán) nhưng vẫn ở mức thấp so với giai đoạn trước. Tính chung cho cả Quý 1/2015, thanh khoản trung bình chỉ đạt 1,489 tỷ đồng/phiên trên HSX và 531.8 tỷ đồng/phiên trên HNX, lần lượt giảm 26% và 37% so với thanh khoản trung bình Quý 4/2014.

Nguyên nhân theo chúng tôi có thể do (1) những thay đổi pháp lý nhắm vào dòng tiền đã chặn 1 lượng lớn tiền nóngvào chứng khoán; (2) thanh khoản của thị trường bất động sản cải thiện đã hút một lượng tiền đáng kể từ thị trường và (3)một lượng vốn lớn của nhà đầu tư trên thị trường bị “chôn” vào các đợt phát hành “khủng” thời gian qua…

Sau khi mua ròng 1,162 tỷ đồng trong tháng 2, nhà đầu tư nước ngoài quay lại bán ròng trong tháng 3 với tổng giá trị 926 tỷ đồng trên cả 2 sàn. Luỹ kế Quý 1, khối ngoại mua ròng 57 tỷ đồng, giảm mạnh so với con số mua ròng 800 tỷ cùng kỳ năm trước.

Top 5 cổ phiếu được khối ngoại mua ròng mạnh nhất trong tháng bao gồm KBC (318 tỷ), KDC (278.2 tỷ), MWG (173.6 tỷ), BID (124.6 tỷ) và CTG (97.6 tỷ). Trong khi đó Top 5 cổ phiếu bị khối ngoại bán ròng mạnh nhất gồm PVD (-432.4 tỷ), GAS (-359.8 tỷ), HPG (-247.4 tỷ), VCB (-246.8 tỷ) và VIC (-208.4 tỷ).

Đáng chú ý trong tháng là giao dịch của quỹ VNM ETF. Ngoài việc gây bất ngờ trong kỳ review danh mục khi loại 2 cổ phiếu ngoại và thêm mới 2 cổ phiếu nội (KBC, KDC), quỹ này liên tiếp bị rút vốn trong nửa cuối tháng, là nguyên nhân chính dẫn đến kết quả bán ròng của khối ngoại và tâm lý e ngại trên thị trường. Cụ thể trong tháng 3 quỹ này bị rút ròng 2,450,000 chứng chỉ quỹ, tương đương khoảng 41.6 triệu USD (~890 tỷ đồng). Đặc biệt có những phiên quỹ này bị rút vốn với khối lượng kỷ lục (1 triệu chứng chỉ quỹ) gây ra những tác động tiêu cực lên tâm lý thị trường.

Trong tháng 3, sự sụt giảm xảy ra ở hầu hết các nhóm ngành, ngoại trừ nhóm Bất động sản (+4%) và Thương mại (+3%). Ngành thuỷ sản có mức độ sụt giảm mạnh nhất (-15%), tiếp theo là Ngành Bảo hiểm (-12%), Khai khoáng (-10%)…

Ngành Ngân hàng giảm 6% trong tháng 3, tuy vậy vẫn giữ được mức tăng 20% so với đầu năm. Tiếp đến là ngành Cơ khí (+11%), Sản xuất thiết bị điện – điện tử - viễn thông (+9%)… Công Nghệ thông tin – Truyền Thông (-21%), Sản xuất tôn thép (-17%)… là những ngành có mức độ sụt giảm mạnh nhất so với đầu năm

XU HƯỚNG THỊ TRƯỜNG THÁNG 4/2015

Thị trường tiếp tục bước vào tháng 4 với những phiên giao dịch ảm đạm. Điểm số mặc dù có dấu hiệu ngừng rơi nhưng thanh khoản chưa có dấu hiệu cải thiện. Quỹ VNM ETF tiếp tục bị rút ròng tạo tâm lý dè chừng trên thị trường.

Sự nới lỏng tại Trung Quốc, Châu Âu, Nhật đã làm đồng nội tệ tại những quốc gia này sụt giảm mạnh so với USD.Trong khi đó, Ngân hàng nhà nước vẫn kiên định đi theo chính sách tỷ giá neo ổn định VND với USD, đã làm cho chứng khoán Việt Nam kém hấp dẫn một cách tương đối so với những thị trường khác, đặc biệt là với các quỹ đầu tư chỉ số ETFs, dẫn đến động thái rút ròng của dòng tiền nóng này.

Mặc dù vậy, chúng tôi cho tằng, thị trường giảm điểm trong giai đoạn qua đã giúp nhiều cổ phiếu về vùng định giá rẻ, thêm vào đó, tâm lý sợ hãi đang bao trùm. Nghiên cứu lịch sử của 2 chỉ báo này, chúng tôi nhận thấy “đây là vùng mua có rủi ro trung hạn thấp nhất”. Ngoài ra, các chỉ báo kinh tế vĩ mô cho thấy nền kinh tế trong nước vẫn duy trì tốc độ phục hồi tốt, chúng tôi khuyến nghị nhà đầu tư nên gia tăng tỷ trọng cổ phiếu.

Tags: ,

Economics | StockAdvisory

Báo cáo chiến lược tháng 04/2015 phần 1

by finandlife09/04/2015 17:21

Tóm tắt diễn biến vĩ mô tháng 03/2015:

§     Tăng trưởng kinh tế phục hồi mạnh trong quý 1 với GDP tăng 6.03% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất của quý 1 trong vòng 5 năm qua.

§     Lạm phát ở mức thấp khi CPI tháng 03/2015 tăng nhẹ 0.15% so với tháng trước, bình quân quý 1 tăng 0.74% so với cùng kỳ là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây.

§     Sản xuất tiếp tục cải thiện nhờ chi phí đầu vào giảm, chỉ số sản xuất công nghiệp IIP quý 1 tăng 9.1%, (cùng kỳ năm trước tăng 5.3%), chỉ số PMI đạt 50.3 điểm. Ước tính nhập siêu 1.8 tỷ USD trong quý 1 để phục vụ sản xuất, gia công, lắp ráp.

§     Cầu tiêu dùng cải thiện khi tổng mức bán lẻ hàng hóa quý 1 tăng 9.2% so với cùng kỳ (sau khi loại yếu tố giá).

§     FDI cả cấp mới và tăng vốn đến 20/3 ước đạt 1.84 tỷ USD, bằng 55.1% cùng kỳ, FDI giải ngân đạt 3.05 tỷ USD, tăng 7%.

§     Thị trường tiền tệ tiếp tục được duy trì ổn định. Khu vực trái phiếu chính phủ, lợi suất giao dịch tăng ở tất cả kỳ hạn.

Tóm tắt diễn biến thị trường và nhận định:

§     VNINDEX đóng cửa ở mức 551.13 điểm, giảm 41.44 điểm, tương đương giảm 7% so với cuối tháng trước. HNXINDEX giảm 3.5 điểm, tương đương giảm 4% so với cuối tháng trước.

§     Trong tháng 3, sự sụt giảm xảy ra ở hầu hết các nhóm ngành, ngoại trừ nhóm Bất động sản (+4%) và Thương mại (+3%). Ngành thuỷ sản có mức độ sụt giảm mạnh nhất (-15%), tiếp theo là Ngành Bảo hiểm (-12%), Khai khoáng (-10%)…

§     Thị trường tiếp tục bước vào tháng 4 với những phiên giao dịch ảm đạm. Điểm số mặc dù có dấu hiệu ngừng rơi nhưng thanh khoản chưa có dấu hiệu cải thiện. Quỹ VNM ETF tiếp tục bị rút ròng tạo tâm lý dè chừng trên thị trường.

§     Chúng tôi cho tằng, thị trường giảm điểm trong giai đoạn qua đã giúp nhiều cổ phiếu về vùng định giá rẻ, thêm vào đó, tâm lý sợ hãi đang bao trùm. Nghiên cứu lịch sử của 2 chỉ báo này, chúng tôi nhận thấy “đây là vùng mua có rủi ro trung hạn thấp nhất”. Ngoài ra, các chỉ báo kinh tế vĩ mô cho thấy nền kinh tế trong nước vẫn duy trì tốc độ phục hồi tốt, chúng tôi khuyến nghị nhà đầu tư nên gia tăng tỷ trọng cổ phiếu.

----------------------------

Các chỉ số chính:

§     Sản lượng sản xuất đạt 53.4 điểm, tăng từ 53.2 điểm tháng trước

§     Đơn đặt hàng mới tăng nhẹ lên 52.3 từ mức 52.2 tháng trước

§     Đơn đặt hàng xuất tăng nhẹ lên 50.9 từ mức 50.8 tháng trước

§     Việc làm mới đạt 50.7 điểm, thấp hơn 51.0 điểm của tháng trước

§     Giá đầu vào tăng đạt 49 điểm, cao hơn 48.7 điểm của tháng trước

§     Giá đầu ra đạt 49.7 điểm tăng nhẹ so với tháng trước (49.6 điểm) 

Trong tháng 03/2015, lĩnh vực sản xuất toàn cầu tiếp tục mở rộng nhưng ở mức khiêm tốn và vẫn chưa ổn định, PMI đạt 51.8 điểm, thấp hơn một chút so với mức 51.9 điểm trong tháng 02, là tháng tăng trưởng thứ 28 liên tiếp.

Tại Mỹ, PMI đạt mức cao nhất trong 5 tháng qua nhờ sự tăng nhanh hơn trong sản xuất và lượng đơn đặt hàng mới.

Khu vực Eurozone, sản xuất tăng mạnh với mức PMI cao nhất trong vòng 10 tháng qua và cao hơn trung bình toàn cầu lần đầu kể từ tháng 4/2014. Trong đó, sản xuất mở rộng tại Đức, Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan và Ireland trong khi co hẹp tại Pháp, Áo, và Hy Lạp.

Tại châu Á, tăng trưởng sản xuất đã dịu bớt. Trong đó PMI dưới mốc 50 tại Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia trong khi mở rộng tại Nhật Bản, Đài Loan và Việt Nam nhưng là yếu hơn so với tháng trước.

Chi phí đầu vào giảm nhẹ trong tháng 03, mức giảm đã dịu so với hai tháng trước, xu hướng tương tự trong giá bán ra.

Nhìn chung, sản xuất toàn cầu tiếp tục mở rộng nhưng tốc độ yếu hơn trong quý 1. Việc sản lượng sản xuất và lượng đơn đặt hàng mới duy trì mức tăng như những tháng gần đây và sự sụt giảm trong hàng tồn kho thành phẩm là những dấu hiện tích cực, kỳ vọng sự phục hồi sẽ tăng tốc trong quý 2.

 

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2015 ước tính tăng 6.03% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng cao nhất của quý I trong 5 năm qua.

Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8.35%, đóng góp nhiều nhất trong mức tăng chung là 2.82 điểm phần trăm. Trong đó, ngành công nghiệp tăng 9.01%, cao hơn nhiều so với mức tăng của một số năm trước, ngành xây dựng tăng 4.40%, thấp hơn mức tăng 5.93% của cùng kỳ năm trước.

Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 2.14%, đóng góp 0.28 điểm phần trăm. Trong đó, ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảng 71%) nhưng tăng thấp ở mức 1.54%, thủy sản tăng 3.38%, lâm nghiệp tăng 6.02%.

Khu vực dịch vụ tăng 5.82%, đóng góp 2.36 điểm phần trăm. Một số ngành có đóng góp lớn vào mức tăng trưởng chung: Bán buôn và bán lẻ tăng 7.11%; dịch vụ lưu trú và ăn uống +5.9%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 5.65%; hoạt động kinh doanh bất động sản cải thiện với mức tăng 2.55% (năm trước là 2.28%).

Về cơ cấu, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 12.35%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34.80%; khu vực dịch vụ chiếm 42.23%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10.62%.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 03/2015tăng 0.15% so với tháng trướcchủ yếu do ảnh hưởng từ nhu cầu tiêu dùng dịp lễ, Tết nên giá nhiều loại hàng hóa tăng. Mặt khác giá gas và giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh tăng cũng tác động vào CPI (đóng góp 0.04% vào mức tăng chung).

Nhóm hàng hóa và dịch vụ có giá tăng cao: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống +0.36%văn hóa, giải trí và du lịch +0.18%nhà ở và vật liệu xây dựng +0.16%.

Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác có giá tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Thiết bị đồ dùng gia đình +0.09%; thuốc và dịch vụ y tế +0.04%; giáo dục +0.01%; giao thông -0.31%; đồ uống và thuốc lá -0.11%; may mặc, mũ nón, giày dép -0.04%; bưu chính viễn thông -0.02%.

Tổng kết, CPI tháng 03/2015 giảm 0.10% so với tháng 12/2014 và tăng 0.93% so với cùng kỳ năm trướcbình quân quý I năm nay tăng 0.74% so với bình quân cùng kỳ năm 2014, đây là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại.

Theo dự báo từ UBGSTKQG, lạm phát cơ bản năm 2015 khoảng 3.5%. Trong điều kiện giá lương thực và năng lượng được dự báo giảm trong năm 2015, khả năng đạt mục tiêu 5% về lạm phát tổng thể sẽ phụ thuộc chủ yếu vào mức độ điều chỉnh giá điện. UBGSTCQG ước tính mức tăng giá điện bình quân 7.5% (ngày 16/3) có ảnh hưởng làm lạm phát cả năm tăng thêm khoảng 0.5 điểm %.

Những đặc điểm chính:

§     Sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng.

§     Chi phí đầu vào tiếp tục giảm mạnh.

§     Việc làm giảm nhẹ.      

Chỉ số PMI ngành sản xuất Việt Nam tháng 03/2015đạt 50.7 điểm, giảm so với mức 51.7 điểm của tháng trước, tuy nhiên vẫn cho thấy sự cải thiện về điều kiện hoạt động trong lĩnh vực sản xuất tháng thứ 19 liên tiếp.

Nhân tố chính giúp cải thiện các điều kiện kinh doanh là cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều tiếp tục tăng. Sản lượng đã tăng tháng tăng thứ 18 liên tiếp với mức tăng là mạnh. Số lượng đơn đặt hàng mới tăng nhưng mức tăng khiêm tốn. Trong đó, đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã tăng sau khi giảm trong tháng trước.

Việc làm ngành sản xuất đã giảm trong tháng 3 sau khi tăng liên tục trong sáu tháng qua, mức giảm là nhẹ một phần do thiếu hụt nhân công.

Chi phí đầu vào tiếp tục giảm mạnh chủ yếu do giá nhiên liệu giảm. Các công ty tiếp tục giảm giá đầu ra tuy nhiên mức giảm là chậm nhất trong 4 tháng qua. Tồn kho thành phẩm đã giảm và mức giảm là mạnh nhất kể từ tháng 6/2014.

Tổng kết, lĩnh vực sản xuất ở Việt Nam tiếp tục mở rộng vào thời điểm cuối quý I, khi các công ty bảo đảm có được số lượng đơn đặt hàng mới lớn hơn từ cả khách hàng trong nước và nước ngoài. Giá cả hàng hóa giảm trên thị trường thế giới tiếp tục góp phần làm giảm giá đầu vào, và nhờ đó các công ty có thể giảm giá bán đầu ra cho khách hàng.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 03 ước tính tăng 9.1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2015 tăng 9.1%, cao hơn nhiều so với mức tăng 5.3% của cùng kỳ năm trước.

Theo nhóm ngành, khai khoáng +6.7%, đóng góp 1.5 điểm phần trăm vào mức tăng chung; chế biến chế tạo +9.6% đóng góp 6.8 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện +12.1%, đóng góp 0.8 điểm phần trăm; cung cấp, xử lý nước thải, rác thải +7.8%, đóng góp 0.1 điểm phần trăm.

Một số ngành có chỉ số sản xuất quý I tăng cao so với cùng kỳ năm trước: SX xe có động cơ +42.9%; SX da và các sản phẩm có liên quan +26.1%; SX sản phẩm điện tử, máy tính và quang học +22.6%; SX giấy và các sản phẩm từ giấy +20.4%; dệt +14.7%.

Mức tăng chỉ số sản xuất công nghiệp tại một số địa phương: Thái Nguyên tiếp tục tăng cao ở mức 568.1%; Hải Phòng +15.1%; Quảng Nam +13.4%; Cần Thơ +13.4%; Đồng Nai +8.3%; Đà Nẵng +8.2%; Hà Nội +7.7%; Hải Dương +6.1%; Bình Dương +5.9%; TP.HCM+5.5%.

 

Tại thời điểm 01/03/2015, chỉ số hàng tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10.9% so với cùng thời điểm năm 2014, chỉ số sử dụng lao động tăng 5.4%.

Tổng mc bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 03ước đạt 253.5 nghìn tỷ đồnggiảm6.4% so với tháng trước và tăng 9.4% so với cùng kỳ năm trước.

Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa chiếm 77.3%, giảm 5.1% so với tháng trước và tăng 11.1% so với cùng kỳ năm trước. Do tháng 03 là tháng sau tết nên doanh thu một số ngành hàng giảm so với tháng trước: Lương thực, thực phẩm -8.4%; đồ dùng, dụng cụ gia đình -5.7%; phương tiện đi lại -5.1%; vật phẩm văn hoá giáo dục -3.3%; riêng nhóm hàng may mặc giảm nhiều ở mức 10,5%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú ăn uống chiếm 10.4%, giảm 17.3% so với tháng trước và tăng 3.3% so với cùng kỳ.

Doanh thu du lịch lữ hành chiếm 0.8%, giảm 7.9% so với tháng trước và giảm 29.4% so với cùng kỳ. Một số địa phương tăng cao: Thừa Thiên Huế +17%, TP. HCM +3.5%, Hà Nội +0.8%, Bà Rịa Vũng Tàu +0.6%.

Doanh thu dịch vụ khác chiếm 11.6%, giảm 3.9% so với tháng trước và tăng 9.7% so với cùng kỳ.

 

Tính chung 3 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 790.8 nghìn tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ, loại trừ yếu tố giá tăng 9.2%, cao hơn mức tăng 5.1% của cùng kỳ năm 2014. 

 

VFS Research

Tags: ,

Economics | StockAdvisory

Thống kê kết quả kinh doanh 9 tháng đầu 2014

by finandlife24/11/2014 14:25

Kết quả sản xuất kinh doanh Quý 3 của các doanh nghiệp niêm yết nhìn chung cho thấy bức tranh khá tương đồng so với 6 tháng đầu năm.

Doanh thu thuần Quý 3 tiếp tục tăng trưởng khá so với cùng kỳ và tăng nhanh hơn so với 6 tháng đầu năm cho thấy nhu cầu và thị trường đầu ra vẫn đang dần cải thiện. Mặc dù vậy mức độ cải thiện là chưa cao khi tốc độ tăng trưởng doanh thu vẫn chậm hơn tốc độ tăng trưởng giá vốn. Điều này dẫn đến biên lãi gộp sụt giảm và lãi gộp tăng trưởng không cao.

Đáng chú ý trong quý này doanh thu tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tăng trưởng mạnh so với cùng kỳ giúp lợi nhuận trước và sau thuế tăng trưởng cao. Các khoản chi phí bán hàng, chi phí quản lý được kiểm soát khá tốt, tăng chậm hơn tốc độ tăng doanh thu. Lãi vay giảm cũng giúp các doanh nghiệp tiết giảm mạnh chi phí tài chính so với cùng kỳ.

Chúng tôi cho rằng, trong các quý tới, khi nhu cầu tiếp tục cải thiện, giá cả đầu ra sẽ tăng bù đắp mức tăng của giá đầu vào, qua đó giúp doanh nghiệp tăng doanh thu và cải thiện các chỉ tiêu biên lợi nhuận.

*Thống kê của chúng tôi không bao gồm các doanh nghiệp ngành Ngân hàng.

-----------------------------

Tổng doanh thu thuần của 518* doanh nghiệp niêm yết Quý 3/2014 tăng 14.1% so với cùng kỳ. Mặc dù tổng lãi gộp chỉ tăng 6.9% nhưng nhờ doanh thu tài chính cải thiện mạnh giúp tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh tăng 18.8%, tổng lợi nhuận sau thuế tăng 20.4% so với Quý 3 năm trước.

Luỹ kế 9 tháng đầu năm, doanh thu thuần tăng 13.4%, Lợi nhuận gộp tăng 6.1%, Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh và lợi nhuận sau thuế lần lượt tăng 8.4% và 6.2% so với cùng kỳ năm trước.

 

Quý 3/2014 doanh thu thuần tăng 14.1% so với cùng kỳ trong khi giá vốn tăng nhanh hơn khiến lãi gộp chỉ tăng 6.9%. Biên lãi gộp trong kì chỉ đạt 16.0% giảm khá so với mức 17.1% cùng kỳ và 16.8% trong 6 tháng đầu năm.

Chi phí tài chính tiếp tục giảm mạnh so với cùng kỳ nhờ chi phí lãi vay giảm. Mặc dù chi phí bán hàng trong quý này đã tăng chậm lại so với 6 tháng đầu năm nhưng Chi phí quản lý doanh nghiệp lại tăng nhanh hơn. Tuy vậy, nhìn chung các chi phí này được kiểm soát tương đối tốt, tăng chậm hơn tốc độ tăng doanh thu.

Đáng chú ý là khoản thu nhập tài chính quý này tăng mạnh đến 49% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do lãi chênh lệch tỷ giá của một số doanh nghiệp vay ngoại tệ nhiều như PPC, HT1... Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán thuận lợi cũng giúp một số doanh nghiệp như FLC, DPM thu được các khoản lợi nhuận tài chính lớn từ việc thoái vốn đầu tư, hay như việc HAG bán cổ phần tại công ty con…

Kết quả tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh của 518 doanh nghiệp niêm yết Quý 3/2014 tăng gần 19%, lợi nhuận trước thuế tăng 18.2% và lợi nhuận sau thuế tăng 20.4% so với cùng kỳ, vượt trội so với các con số tăng trưởng luỹ kế 9 tháng đầu năm 2014.

 

Quý 3/2014 có 459 trên tổng số 518 doanh nghiệp báo lãi, cao hơn so với 437 doanh nghiệp báo lãi của Quý 3/2013. Tổng lãi của các doanh nghiệp báo lãi cũng lớn hơn cùng kỳ. Số doanh nghiệp báo lỗ cũng giảm với chỉ 57 doanh nghiệp báo lỗ so với 79 doanh nghiệp cùng kỳ. Tuy vậy, tổng lỗ của các doanh nghiệp báo lỗ lại tăng so với cùng kỳ.

Luỹ kế 9 tháng, tổng số doanh nghiệp báo lãi là 448 doanh nghiệp, cao hơn so với 429 doanh nghiệp báo lãi 9 tháng cùng kỳ.

 

Quý 3/2014 có 312/518 doanh nghiệp có kết quả lợi nhuận tăng trưởng so với cùng kỳ. Luỹ kế 9 tháng, có 329/518 doanh nghiệp tăng trưởng lợi nhuận.

 

Luỹ kế 9 tháng đầu năm, có 234/488* doanh nghiệp thực hiện trên 75% kế hoạch lợi nhuận cả năm. Trong đó có 112 doanh nghiệp đã hoàn thành vượt kế hoạch và 122 doanh nghiệp thực hiện từ 75 – 100% kế hoạch lợi nhuận. Số doanh nghiệp thực hiện dưới 75% kế hoạch lợi nhuận là 254 doanh nghiệp, trong đó có 171 doanh nghiệp thực hiện dưới 50% kế hoạch lợi nhuận.

 

Tại thời điểm 30/9/2014, tổng tài sản của các doanh nghiệp niêm yết tăng 7.0%, Vốn chủ sở hữu tăng 7.2%, vốn điều lệ tăng 8.2% và tổng vay nợ tăng 0.6% so với cùng thời điểm năm trước.

 

Phân tích chi tiết cho thấy, kết quả kinh doanh có sự phân hoá theo nhóm ngành. Ngành Du lịch & giải trí có kết quả sụt giảm lợi nhuận mạnh nhất trong Quý 3 và luỹ kế 9 tháng đầu năm. Tiếp theo là các doanh nghiệp ngành hoá chất (phân bón; nhựa, cao su & sợi…).

Ngành Dịch vụ tài chính (chủ yếu là môi giới chứng khoán) tiếp tục có kết quả kinh doanh theo sát diễn biến thị trường chứng khoán với kết quả lợi nhuận quý 3 và luỹ kế 9 tháng tăng lần lượt 139% và 68% so với cùng kỳ.

Trong khi đó, ngành dầu khí sau khi có kết quả kinh doanh tăng trưởng cao trong quý 2 đã quay đầu giảm nhẹ trong quý 3. Luỹ kế 9 tháng, lợi nhuận của nhóm ngành này vẫn tăng trưởng 32% so với cùng kỳ.

Một số ngành như Tài nguyên cơ bản, xây dựng và vật liệu, hàng cá nhân & gia dụng, bán lẻ, bảo hiểm… tiếp tục có kết quả lợi nhuận tăng trưởng khả quan trong Quý 3.

Ngành bất động sản (không bao gồm VIC) có sự cải thiện lợi nhuận mạnh mẽ nhất cả trong quý 3 lẫn luỹ kế 9 tháng phần nào thể hiện sự cải thiện của hoạt động kinh doanh bất động sản trong nước.

 

Nguồn: VFS Research

Tags: ,

Economics

Thailand ‘gears up’ as China ‘goes South’

by finandlife27/08/2014 09:00

Hôm rồi dự Hội Thảo “Tiến trình Đàm phán TPP” được TS Nguyễn Đức Thành phân tích tầm quan trọng của những hiệp định tự do khác, trong đó có hiệp định tự do Asean, hiệu lực từ 2015. Khi Asean là một tổ chức thống nhất, nhà đầu tư nước ngoài nhìn vào Asean như một khu vực kinh tế chung, do vậy, việc quyết định đầu tư sẽ phụ thuộc nhiều vào hệ thống doanh nghiệp bổ trợ tốt, chất lượng nhân lực tốt… Hiện, Thái Lan đang khá nghiêm túc trong chuẩn bị để tận dụng việc hội nhập này. Họ đòi hỏi sinh viên phải học thêm 1 thứ ngôn ngữ khác trong khu vực và định hướng khả năng làm việc bên ngoài lãnh thổ Thái Lan trong những năm tới.

Phải thừa nhận Thái Lan đã có cách tiếp cận và chiến lược khá tốt trong những thập niên qua. Các vấn đề liên quan đến mặt trái của dòng vốn đi vào một nền kinh tế phần nhiều phụ thuộc vào năng lực quản lý, kiểm soát của quốc gia đó, còn tiền là “THẬT”. Ngay cả trong chiến lược “hướng Nam” của Trung Quốc, Thái Lan cũng xây dựng chiến lược để tận dụng xu hướng này, đặc biệt là tận dụng nguồn vốn đầu tư FDI và thương mại 2 chiều. Trong khi đó, Việt Nam lại bị một số học giả “khuynh tả” cho rằng “đây là cơ hội để thoát Trung”. Đúng hay sai lịch sử sẽ ghi lại, nhưng thiết nghĩ “một cơ thể đang tuổi lớn”, cái quan trọng nhất là dinh dưỡng đầy đủ để nó có thể trở thành cậu thanh niên khỏe mạnh, chứ chưa phải lúc để lo nghĩ quá nhiều về việc “chúng ta sẽ nghỉ hưu thế nào”.

--------------------------------

Thailand must start thinking seriously about how to be China’s first choice among the 10 Asean countries under Beijing’s “Going South” strategy to boost trade with Asean to US$1 trillion by 2020 from $500 billion currently.

Speaking at a session on China and its companies in the Asean Economic Community, Chansak Fuangfu, director and senior executive vice president of Bangkok Bank, pointed out that many countries in Asean wanted to cash in on China’s trade activities.

The seminar was hosted by Bangkok Bank, The Nation, China Daily and Asia News Network, among others.

Chansak said the Thai government must do what it could to enhance trade, but Thai companies had to prepare themselves as well.

The government needs to promote use of the yuan as a trade currency, streamline the regulatory and tax systems, and encourage better Chinese-language skills.

He said that as Chinese companies increasingly moved south, competitive challenges for Thai companies would rise, so the Thai government needed to rethink its investment-promotion strategy, not only to attract foreign direct investment into Thailand but also promote Thai FDI into the region.

“Thai outward FDI needs to be coordinated, and we can learn much from the Chinese government’s ‘Going Out’ model,” he said.

The Chinese government is pursuing a new development strategy as its east coast is now too expensive for manufacturing.

It has implemented Go West, Going South and Going Out policies. As part of the Going South strategy, Nanning and Kunming are the key gateways linking southern and western China to Asean.

China’s cooperative agreements with the Greater Mekong Subregion, plus bilateral relationships, have led to major infrastructure projects, including road and rail (Southern Economic Corridor).

These have contributed to trade between China and Asean growing more than nine-fold over the past decade to a projected $500 billion this year.

China is now a key part of the Asean economy and Beijing wants to double trade with Asean to $1 trillion by 2020.

Chansak said Thailand was the regional hub for Chinese companies, as its low logistics costs enable them to control their AEC supply chains from here.

He noted that over the past five years, Beijing had actively promoted investment overseas by Chinese companies, including into Asean, as it aims to build China’s corporate presence internationally.

China’s FDI into Asean has grown 40-fold over the past decade to more than $6 billion annually.

China plans to increase its total accumulated investment in the region to $150 billion by 2020 from the current $30 billion.

For Asean, “Going South” and “Going Out” are the most important strategies, as they will help make China more competitive in the long run. Chinese companies are making more mergers and acquisitions and expanding investment in Asean.

Chansak raised the example of the joint venture between Thai conglomerate Charoen Pokphand Group and Shanghai Automotive to produce right-hand-drive cars under the formerly British MG brand in Thailand.

Sarasin Viraphol, executive vice president for strategy for China at CP Group, said Asean had become an international stage for China, where it is increasing its role in technological ventures apart from automotive products and consumer electronics.

But he said China should keep in mind the environmental impacts of its operations, as well as their sustainability amid limited resources.

Wang Helin, managing director of ZTE (Thailand) Co, the local unit of a Chinese integrated telecommunication solution provider, said at the same session that the development tendencies in Asean countries were basic infrastructure and innovation in mobile and cloud solutions.

Asean countries provide big potential for broadband businesses, he said, because of their high economic growth rates while broadband penetration remains relatively low.

However, he acknowledged that Chinese companies were not familiar with communicating in English, which would be a challenge for those keen on penetrating the Asean market.

 

Nguồn: finandlife|Sucheera Pinijparakarn, The Nation

Tags:

Economics

DISCLAIMER

I am currently serving as an Investment Manager at Vietcap Securities JSC, leveraging 16 years of experience in investment analysis. My journey began as a junior analyst at a fund in 2007, allowing me to cultivate a profound understanding of Vietnam's macroeconomics, conduct meticulous equity research, and actively pursue lucrative investment opportunities. Furthermore, I hold the position of Head of Derivatives, equipped with extensive knowledge and expertise in derivatives, ETFs, and CWs.

 

To document my insights and share personal perspectives, I maintain a private blog where I store valuable information. However, it is essential to acknowledge that the content provided on my blog is solely based on my own opinions and does not carry a guarantee of certainty. Consequently, I cannot assume responsibility for any trading or investing activities carried out based on the information shared. Nonetheless, I wholeheartedly welcome any questions or inquiries you may have. You can contact me via email at thuong.huynhngoc@gmail.com.

 

Thank you for your understanding, and I eagerly anticipate engaging with you on topics concerning investments and finance.

Designed by: Nguyễn Chí Hiếu